Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Hội chứng Weber là một dạng của hội chứng thân não và thường gây ra bởi thiếu máu cục bộ do huyết khối tắc mạch. Hậu quả điển hình của hội chứng này bao gồm suy giảm chức năng vận động mắt, liệt nửa người và các tổn thương thần kinh khác.
Hội chứng Weber gây ra tình trạng liệt nửa người, trong đó bao gồm chủ yếu là rối loạn chức năng của các dây thần kinh sọ não, cũng như các rối loạn hoạt động cơ (như tê liệt và liệt), mất cảm giác và phối hợp vận động. Ở bài viết dưới đây, Nhà Thuốc Long Châu sẽ giúp bạn tìm hiểu những thông tin về hội chứng này, bao gồm nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị và cách phòng ngừa nó.
Hội chứng Weber là một tình trạng thần kinh do chấn thương não giữa hay phần trên cùng của thân não. Hội chứng thường do đột quỵ (nhồi máu) nhưng trong một vài trường hợp, cũng có thể gặp hội chứng Weber do khối u não, chấn thương hoặc nhiễm trùng gây ra.
Não giữa vốn là một trong những vùng nhỏ nhất của não bộ và hội chứng Weber gây ảnh hưởng lên các chức năng được kiểm soát bởi một phần nhỏ chuyển động của vùng này như mắt. Tuy vùng não này khá nhỏ nhưng hầu hết những người mắc hội chứng Weber thường gặp một số vấn đề lớn về thần kinh.
Hội chứng Weber nhằm nêu ra một chấn thương ở não giữa bên phải, bên trái hoặc cả hai bên. Đột quỵ thường chỉ ảnh hưởng đến một bên, trong khi đó chấn thương hoặc nhiễm trùng có thể ảnh hưởng đến một bên hoặc cả hai bên.
Trong trường hợp bệnh nhân mắc hội chứng Weber bị đột quỵ thường có gián đoạn dòng máu qua động mạch não sau bên phải hoặc bên trái và các mạch máu chính cung cấp cho não giữa. Sự gián đoạn này có thể làm hỏng dây thần kinh sọ thứ ba, đây là dây thần kinh giúp kiểm soát chuyển động của mí mắt và mắt.
Tuy nhiên, nếu một nhánh nhỏ của động mạch não sau khi bị đứt thì các triệu chứng của đột quỵ có thể nhẹ hơn và ít lan rộng hơn trường hợp toàn bộ động mạch não sau khi bị đứt. Thông thường, trong đột quỵ sẽ chỉ có một nhánh của động mạch bị gián đoạn do hội chứng Weber, mặc dù mức độ nghiêm trọng có thể khác nhau.
Bên cạnh đó, các nguyên nhân ngoài đột quỵ cũng rất hiếm gặp và không được ghi chép đầy đủ, nhưng hội chứng Weber có thể được ghi nhận là do khối u, chấn thương não, nhiễm trùng hoặc nhiều nguyên nhân khác có ảnh hưởng đến lưu lượng máu ở não giữa.
Ví dụ, một báo cáo đã nêu ra trường hợp hội chứng Weber ở một bệnh nhân đã trải qua một vết thương xuyên thấu não giữa. Một báo cáo khác cũng cho thấy hội chứng Weber ở một bệnh nhân phát triển u lao, là một dạng bệnh lao hiếm gặp và nghiêm trọng ở não. Và một trường hợp khác phát triển từ phình động mạch máu não giữa.
Có một điểm chung trong hầu hết các trường hợp hiếm hoi này, hội chứng Weber dường như là một chẩn đoán xuất hiện sau khi căn bệnh ban đầu đã được phát hiện và điều trị. Trong những trường hợp này, hội chứng Weber có thể tự khỏi hay không còn phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Các triệu chứng đầu tiên của hội chứng đó là tình trạng tê liệt đang phát triển của cơ lưỡi, cơ mặt, bàn tay hay bàn chân theo biến thể trung tâm. Các triệu chứng lâm sàng được giải thích bằng sự bất động một phần hay toàn bộ thần kinh thị giác. Rối loạn các chức năng của cơ bắp dẫn đến sự lệch hướng của nhãn cầu về phía thái dương, hay nói cách khác đó là mắt nhìn theo hướng ngược lại từ phía bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, có thể phát hiện được các chuyển động nhịp nhàng và chuyên sâu thông qua trải nghiệm Clonus, gây ra bởi sự co thắt cơ. Theo thời gian, tình trạng của bệnh nhân trở nên tệ hơn như chức năng uốn của bàn tay bị vượt quá mức độ phản xạ bảo vệ của nó.
Hội chứng của Weber được điều trị nhằm mục đích là loại bỏ nguyên nhân chính gây ra các thay đổi bệnh lý ở đáy não. Do đó, thường tập trung điều trị các rối loạn mạch máu, rối loạn tuần hoàn não, quá trình viêm màng não, loại bỏ khối u hay phình mạch.
Ngoài ra, một số loại thuốc có thể được chỉ định sử dụng như:
Nếu cần thiết, bác sĩ sẽ can thiệp phẫu thuật nhằm điều chỉnh các rối loạn mạch máu và cấu trúc.
Hiện nay, một trong những cách điều trị hiệu quả nhất các hội chứng luân phiên có nguồn gốc đó là cấy ghép tế bào gốc.
Tế bào gốc sau khi cấy ghép sẽ kích hoạt sự phục hồi của các mô (gồm các mô thần kinh), tạo ra những điều kiện thuận lợi cho điều trị và tái tạo cấu trúc não bị tổn thương. Sau khi mô não được phục hồi thì quá trình điều trị hội chứng Weber cũng được thuận lợi.
Dự báo hội chứng Weber để được chăm sóc y tế kịp thời cùng với sự tổn thương nhỏ lên não có thể giúp quá trình điều trị diễn ra thuận lợi. Bên cạnh đó, nếu tổn thương rộng hoặc gây ra do khối u thì chức năng não có thể bị suy giảm không hồi phục.
Một số hậu quả của hội chứng Weber có thể gặp:
Hội chứng Weber không phải là do bệnh lý độc lập mà thường là hậu quả hoặc biến chứng của các bệnh khác hay các thương tích khác có liên quan đến rối loạn tuần hoàn não và tủy sống. Do đó, biện pháp phòng ngừa để ngăn ngừa sự phát triển của hội chứng Weber là ngăn chặn các hướng tiến triển khác nhau của rối loạn tuần hoàn não.
Những khuyến cáo dự phòng hội chứng Weber:
Những người mắc hội chứng Weber phải luôn có sự giám sát y tế liên tục. Ngay cả khi ở trạng thái tương đối ổn định, không có sự suy thoái rõ ràng nhưng không được mất cảnh giác vì những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào ngay cả sau điều trị. Đây là một hội chứng nguy hiểm, bất cứ trường hợp nghi ngờ hoặc mắc bệnh đều cần được bác sĩ thăm khám và điều trị kịp thời nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Nhà Thuốc Long Châu chúc bạn luôn mạnh khỏe!
Ánh Vũ
Nguồn tham khảo: MSD Manual
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.