Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Rối loạn nhịp tim là một trong các tình trạng thường gặp nhất ở tim. Nó gây cảm giác khó chịu và đau đớn cho người bệnh. Để hạn chế các đơn đau ở tim do rối loạn nhịp tim gây ra, máy tạo nhịp tim chính là giải pháp. Vậy máy tạo nhịp tim là gì? Đặt máy tạo nhịp tim có an toàn không? Hãy cùng Nhà thuốc Long Châu tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé!
Máy tạo nhịp tim là một thiết bị hữu ích dành cho những người có vấn đề về tim mạch. Tìm hiểu thông tin về loại máy này giúp bạn có cái nhìn tổng quát hơn. Những thắc mắc về máy tạo nhịp tim sẽ được giải đáp trong bài viết dưới đây.
Trong cơ thể chúng ta, tim là bộ phận trọng yếu, có vai trò quan trọng trong hệ tuần hoàn. Tim được ví như một chiếc máy bơm, giúp đẩy máu mang theo các chất dinh dưỡng và oxy đi khắp cơ thể để nuôi dưỡng và duy trì hoạt động sống của các cơ quan nội tạng và tế bào. Nhờ có tim mà các hoạt động sống của cơ thể được diễn ra ổn định. Vì vậy, bất kỳ sự rối loạn nào xảy ra ở tim đều ảnh hưởng đến hoạt động sống của cơ thể.
Một trong các vấn đề thường gặp nhất ở tim đó là tình trạng rối loạn nhịp tim. Một số triệu chứng phổ biến của rối loạn nhịp tim bao gồm:
Để giảm bớt tình trạng này, năm 1889, các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu về xung điện tim. Đến năm 1956, tại Hoa Kỳ, một ca cấy ghép máy tạo nhịp đầu tiên vào cơ thể sống đã thành công. Năm 1973, Việt Nam cũng thực hiện thành công ca cấy ghép máy tạo nhịp đầu tiên. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, phải đến năm 1990, máy tạo nhịp mới được phát triển mạnh mẽ và phổ biến tại Việt Nam. Đến nay, máy tạo nhịp đã trở thành một phương pháp điều trị hiệu quả cho nhiều bệnh nhân rối loạn nhịp tim, giúp họ có thể sống một cuộc sống bình thường, khỏe mạnh.
Máy tạo nhịp tim là một thiết bị nhỏ dùng để điều trị một số chứng rối loạn nhịp tim. Khi bị rối loạn nhịp tim, tim có thể đập quá nhanh, quá chậm hoặc nhịp tim không đều. Máy tạo nhịp tim gửi các xung điện để giúp tim bạn đập ở tốc độ và nhịp điệu bình thường. Máy tạo nhịp tim cũng có thể được sử dụng để giúp buồng tim của bạn đập đồng bộ để tim có thể bơm máu hiệu quả hơn đến cơ thể. Điều này có thể cần thiết nếu bạn bị suy tim.
Cấu tạo của máy tạo nhịp tim bao gồm hai phần chính:
Máy tạo nhịp (Pacemaker) là bộ phận chính của máy tạo nhịp tim, bao gồm:
Tất cả các bộ phận chính của máy tạo nhịp được bảo vệ bởi vỏ máy làm bằng hợp kim có tính chất sinh học, giúp máy hoạt động ổn định và an toàn cho người bệnh.
Dây điện cực (Electrode) là một bộ phận quan trọng của máy tạo nhịp tim. Dây điện cực có ba phần chính:
Đầu điện cực có vai trò rất quan trọng trong máy tạo nhịp tim. Đầu điện cực có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động điện của tim và truyền các xung động điện của máy tạo nhịp tới cơ tim. Cấu tạo của đầu điện cực rất đặc biệt để có thể cố định tốt vào thành tim đồng thời phải giảm bớt được hiện tượng xơ hoá tái vị trí gắn vào thành tim.
Máy tạo nhịp tim là một thiết bị điện tử nhỏ được cấy ghép dưới da ở ngực hoặc bụng. Thiết bị này gửi tín hiệu điện đến tim để điều hòa nhịp tim. Bệnh nhân cần dùng đến máy tạo nhịp tim vì tim đập quá chậm hoặc quá nhanh. Nhịp tim chậm có thể gây ra các triệu chứng như: Mệt mỏi, chóng mặt, khó thở, đau ngực, ngất. Các cơn nhịp tim chậm đột ngột có thể gây ra nguy cơ chấn thương hoặc tổn thương ở bệnh nhân.
Các tình trạng cần sử dụng máy tạo nhịp tim bao gồm:
Những lưu ý với bệnh nhân sau khi đặt máy tạo nhịp tim:
Các biến chứng có thể xảy ra của thiết bị tạo nhịp tim hoặc phẫu thuật của nó có thể bao gồm:
Các nguy cơ hiếm gặp khác bao gồm:
Hy vọng thông qua những chia sẻ từ bài viết trên đây đã giúp bạn hiểu rõ hơn về máy tạo nhịp tim. Đây là một thiết bị hữu ích dành cho những bệnh nhân gặp vấn đề về nhịp tim. Hãy thăm khám bác sĩ để được chỉ định phương pháp điều trị phù hợp nhé!
Xem thêm:
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.