Dược sĩ Đại học có nhiều năm kinh nghiệm trong việc tư vấn Dược phẩm và hỗ trợ giải đáp thắc mắc về Bệnh học. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Bạch cầu có chức năng quan trọng là phát hiện và tiêu diệt các vật thể lạ gây bệnh trong máu đi khắp cơ thể. Xét nghiệm công thức máu cho biết tình trạng và số lượng bạch cầu, giúp phát hiện những bất thường. Vậy chính xác tế bào bạch cầu là gì?
Theo dõi số lượng bạch cầu là điều cần thiết để chẩn đoán và quản lý các tình trạng sức khỏe khác nhau. Xét nghiệm máu định kỳ giúp phát hiện sớm những bất thường, từ đó có biện pháp can thiệp và điều trị kịp thời. Hiểu được tầm quan trọng của số lượng bạch cầu có thể giúp nhận biết các triệu chứng và tìm kiếm sự chăm sóc y tế kịp thời.
Bạch cầu là thành phần không thể thiếu trong máu của mỗi người. Chúng bảo vệ cơ thể bằng cách phát hiện và tiêu diệt các vật thể lạ gây bệnh trong máu. Có nhiều loại tế bào bạch cầu, mỗi loại có một chức năng cụ thể. Tuổi thọ của bạch cầu dao động từ một tuần đến vài tháng, tùy thuộc vào vai trò của chúng.
Một số tế bào bạch cầu chịu trách nhiệm thực bào, nghĩa là chúng tiêu thụ các vật thể lạ. Các tế bào bạch cầu khác ghi nhớ những “kẻ xâm lược” từ bên ngoài để chúng có thể nhanh chóng được xác định và tiêu diệt nếu chúng xâm chiếm trở lại. Một số tế bào bạch cầu tiết ra kháng thể lưu thông trong máu để bảo vệ cơ thể khỏi bệnh tật. Ngoài việc hiện diện trong máu, số lượng bạch cầu được sản xuất trong tủy xương và cư trú trong các mô của cơ thể để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ cũng rất lớn.
Các tế bào bạch cầu có thể được phân loại dựa trên chức năng và nhiệm vụ của chúng trong máu:
Hiểu được vai trò và chức năng của các loại tế bào bạch cầu khác nhau là điều cần thiết để duy trì hệ thống miễn dịch khỏe mạnh và đảm bảo cơ thể có thể chống lại nhiễm trùng và bệnh tật một cách hiệu quả.
Về số lượng bạch cầu trong máu, còn được gọi là chỉ số WBC trong xét nghiệm phân tích máu bình thường, dao động từ 6 đến 9 k/μL (6.000 đến 9.000 trong 1 micro lít máu). Trong quá trình xét nghiệm phân tích máu toàn phần, nếu kết quả chỉ số WBC là 40 - 10 Giga/L thì có khả năng bạn bị nhiễm trùng, bệnh máu ác tính hoặc bệnh bạch cầu. Bác sĩ có thể phát hiện được các bệnh như bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính, bệnh bạch cầu lymphocytic cấp tính, bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính và bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính. Lưu ý là các tình trạng như thiếu máu và nhiễm trùng khác nhau cũng có thể ảnh hưởng đến số lượng WBC.
Trong những trường hợp này, bác sĩ sẽ chỉ định các xét nghiệm khác để chẩn đoán bệnh chính xác và cụ thể. Các xét nghiệm bổ sung này giúp xác định chính xác nguyên nhân gây ra số lượng bạch cầu bất thường, đảm bảo điều trị và quản lý thích hợp tình trạng cơ bản. Việc theo dõi thường xuyên và xét nghiệm máu toàn diện là rất quan trọng để phát hiện sớm và điều trị hiệu quả các bệnh này.
Số lượng bạch cầu tăng lên do nhiễm trùng bởi vi khuẩn, ký sinh trùng và nhiễm trùng các cơ quan trong cơ thể như viêm phổi, áp xe gan. Trong một số trường hợp, bạn có thể bị ung thư hệ thống tạo máu như bệnh bạch cầu cấp tính hoặc mãn tính. Bệnh bạch cầu là do số lượng bạch cầu tăng cao so với bình thường. Lúc này, người bệnh sẽ có các triệu chứng từ nhẹ đến nặng như luôn cảm thấy mệt mỏi, sụt cân không rõ nguyên nhân, cáu kỉnh, căng thẳng. Những người có số lượng bạch cầu cao thường bị sốt nhẹ, kèm theo các bệnh nhiễm trùng trong cơ thể. Ngoài ra, người bệnh còn có tình trạng thở yếu, yếu cơ, vết thương khó lành, bầm tím dù không có tác động, chảy máu cam không rõ nguyên nhân.
Ngược lại, giảm bạch cầu là tình trạng số lượng bạch cầu trung bình rất thấp. Ngoài ra, giảm bạch cầu trung tính cũng là một dạng bệnh phổ biến. Các tế bào bạch cầu được tạo ra từ tủy xương và di chuyển đến máu cũng như các vùng bị nhiễm bệnh. Loại này tiết ra chất có tác dụng tiêu diệt vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể. Những người có số lượng bạch cầu dưới 1500 được gọi là giảm bạch cầu. Các trường hợp người mắc bệnh lao, bệnh truyền nhiễm, sốt xuất huyết hoặc nhiễm một số loại vi-rút như Epstein-Barr, cytomegalovirus, viêm gan và HIV thường bị giảm số lượng bạch cầu.
Một số loại bệnh bạch cầu phổ biến bạn cần biết:
Bệnh bạch cầu cấp tính là bệnh gây ra sự tăng sinh của các tế bào chủ yếu là chưa trưởng thành, kém biệt hóa, thường ở dạng blast, trong tủy xương. Bệnh bạch cầu cấp tính được chia thành các loại:
Bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL)
Đây là dạng ung thư phổ biến ở trẻ em nhưng cũng có thể xuất hiện ở người lớn ở mọi lứa tuổi. Sự biến đổi ác tính và tăng sinh không kiểm soát của các tế bào tiền thân tạo máu biệt hóa bất thường, tồn tại lâu dài dẫn đến số lượng lớn tế bào non (blast) lưu hành, thay thế tủy xương bình thường bằng các tế bào ác tính xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương và tinh hoàn ở nam giới.
Các triệu chứng của bệnh bạch cầu lymphoblastic cấp tính bao gồm mệt mỏi, đau xương, sốt, dễ chảy máu dưới da, bầm tím, chảy máu niêm mạc và các hạch bạch huyết gan và lá lách to. Các bác sĩ chẩn đoán bệnh dựa trên xét nghiệm công thức máu, phết máu ngoại vi, tế bào học tủy xương, xét nghiệm dấu hiệu miễn dịch tế bào, đột biến gen và sinh học phân tử.
Quá trình điều trị thường bao gồm sự kết hợp của các loại thuốc hóa trị để đẩy lùi bệnh, tiêm hóa trị liệu vào bên trong, điều trị dự phòng thần kinh trung ương, xạ trị phòng ngừa hoặc điều trị xâm lấn hệ thần kinh trung ương, ghép tế bào gốc kết hợp ở các phân nhóm có nguy cơ cao và hóa trị liệu duy trì để giảm tái phát.
Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML)
Trong bệnh này, sự biến đổi ác tính và tăng sinh không kiểm soát của các tế bào gốc tạo máu tủy sớm không biệt hóa hoặc biệt hóa bất thường dẫn đến sự gia tăng số lượng tế bào máu chưa trưởng thành, xâm lấn hoặc tuần hoàn, thay thế tủy bình thường bằng tế bào ác tính.
Các triệu chứng bao gồm mệt mỏi, sốt, dễ bầm tím và chảy máu. Triệu chứng thâm nhiễm tế bào ung thư bạch cầu ngoài tủy chỉ xuất hiện ở khoảng 5% bệnh nhân, thường biểu hiện ở da. Xét nghiệm mẫu máu ngoại vi và tủy xương có thể giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh. Điều trị bao gồm hóa trị để đẩy lùi bệnh và hóa trị sau thuyên giảm có hoặc không ghép tế bào gốc để ngăn ngừa nguy cơ tái phát.
Bệnh bạch cầu mãn tính có nhiều tế bào trưởng thành hơn bệnh bạch cầu cấp tính. Bệnh thường biểu hiện dưới dạng tăng bạch cầu có hoặc không có giảm số lượng tế bào máu bình thường ở những bệnh nhân không có triệu chứng. Bệnh bạch cầu mãn tính được chia thành các loại:
Bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL)
Bệnh được đặc trưng bởi sự tích tụ dần dần của các tế bào lympho B ác tính trưởng thành về kiểu hình. Các vị trí tổn thương bệnh chính bao gồm tủy xương, máu ngoại vi, hạch bạch huyết và lá lách.
Các triệu chứng có thể không có hoặc bao gồm bệnh hạch bạch huyết, gan lách to, sốt, mệt mỏi, sụt cân không chủ ý, đổ mồ hôi ban đêm và cảm giác no sớm. Bệnh được chẩn đoán bằng phương pháp tế bào học dòng chảy và kiểu hình miễn dịch của máu ngoại vi. Việc điều trị thường bị trì hoãn cho đến khi các triệu chứng cho thấy bệnh đã tiến triển, thường liên quan đến liệu pháp miễn dịch và hóa trị.
Bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính (CML)
Bệnh xảy ra khi các tế bào trở nên ác tính và tăng sinh tủy, gây ra sự sản xuất quá mức các bạch cầu hạt chưa trưởng thành. Ban đầu, bệnh không có triệu chứng, tiến triển dần dần qua giai đoạn mãn tính với các biểu hiện không đặc hiệu như sụt cân, chán ăn, mệt mỏi, sau đó là giai đoạn tiến triển và cuối cùng là giai đoạn cấp tính với các triệu chứng tương tự như một trường hợp bệnh bạch cầu cấp tính, bao gồm: Hạch bạch huyết gan và lá lách to, sốt, dễ bầm tím và chảy máu, và nhiễm trùng. Chẩn đoán bệnh dựa trên xét nghiệm công thức máu, phết máu ngoại vi, chọc hút tủy xương để xét nghiệm tế bào tủy xương, xác định nhiễm sắc thể Philadelphia và tìm chuyển vị t(9;22) hoặc protein BCR/ABL.
Hội chứng rối loạn sinh tủy (MDS) là một nhóm các rối loạn tế bào gốc tạo máu, đặc trưng bởi sự giảm số lượng tế bào máu ngoại vi, rối loạn tăng sinh của các tế bào tiền thân tạo máu và giảm hoặc tăng các tế bào bình thường trong tủy xương.
Bệnh tiến triển nặng và có nguy cơ cao chuyển thành bệnh bạch cầu cấp tính. Các triệu chứng lâm sàng do giảm tiểu cầu bao gồm mệt mỏi, xanh xao thứ phát do thiếu máu, dễ bầm tím, chảy máu thứ phát do giảm tiểu cầu, sốt và tăng nhiễm trùng thứ phát do giảm bạch cầu.
Các bác sĩ có thể dựa vào xét nghiệm công thức máu, phết máu ngoại vi, chọc hút tủy xương và tìm đột biến nhiễm sắc thể, đột biến gen để chẩn đoán hội chứng rối loạn sinh tủy.
Tình trạng này xảy ra khi số lượng bạch cầu trung tính lên trên 50.000/mcL và sự biến đổi ác tính của tế bào gốc tạo máu không là nguyên nhân gây ra hiện tượng này. Thay vào đó, đây có thể là kết quả của nhiều nguyên nhân, nhất là nhiễm trùng hệ thống nặng hoặc một số bệnh ung thư khác.
Tóm lại, tế bào bạch cầu có vai trò vô cùng quan trọng đối với cơ thể chúng ta. Một khi số lượng bạch cầu trong máu cao hoặc thấp hơn mức bình thường đều là tín hiệu cảnh báo cho chúng ta về các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn có liên quan cần được can thiệp sớm để tránh nguy cơ tác động xấu đến sức khỏe.
Xem thêm: Bạch cầu trung tính tăng trong trường hợp nào? Cách chẩn đoán bệnh?
Dược sĩ Đại họcNguyễn Mỹ Huyền
Dược sĩ Đại học có nhiều năm kinh nghiệm trong việc tư vấn Dược phẩm và hỗ trợ giải đáp thắc mắc về Bệnh học. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.