Với hơn 8 năm kinh nghiệm, trong đó có 5 năm làm việc trong lĩnh vực Nội khoa và 3 năm chuyên về tiêm chủng, bác sĩ đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩHoàng Thị Lệ
Với hơn 8 năm kinh nghiệm, trong đó có 5 năm làm việc trong lĩnh vực Nội khoa và 3 năm chuyên về tiêm chủng, bác sĩ đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Loét giác mạc là bệnh về mắt do khiếm khuyết biểu mô giác mạc cùng với tình trạng viêm nhiễm. Đây là bệnh khá nguy hiểm, nếu không điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng trên mắt. Vì vậy, việc hiểu rõ về bệnh loét giác mạc có thể giúp bạn phát hiện và điều trị bệnh kịp thời và hiệu quả.
Loét giác mạc là một khiếm khuyết biểu mô giác mạc với tình trạng viêm nhiễm nền thường do sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm, vi rút hoặc Acanthamoeba. Loét giác mạc có xu hướng hàn gắn bằng tổ chức sẹo xơ gây đục giác mạc và giảm thị lực. Nó có thể được bắt đầu bởi chấn thương cơ học hoặc thiếu hụt dinh dưỡng, và tình trạng viêm không kiểm soát được có thể tạo ra hoại tử giác mạc.
Một số dấu hiệu như kết mạc cương tụ, nhức mắt, cảm giác mắt có dị vật, nhạy cảm ánh sáng, chảy nước mắt có thể xảy ra lúc đầu.
Loét giác mạc bắt đầu như một tổn thương biểu mô giác mạc bắt màu fluorescein và vùng đục bề mặt tròn, bờ tù màu xám. Sau đó, loét mưng mủ và hoại tử tạo thành ổ loét có bờ gồ. Thường gặp cương tụ quanh rìa giác mạc. Loét có thể lan rộng ra khắp giác mạc, có thể xuyên sâu vào nhu mô hoặc cả hai. Ngoài ra, trong những trường hợp này, có thể xảy ra hiện tượng mủ tiền phòng (bạch cầu xếp lớp ở tiền phòng). Một số trường hợp tình trạng bệnh kéo dài, có thể có tân mạch giác mạc xuất phát từ rìa.
Viêm loét giác mạc do Acanthamoeba thường đau nhiều và có thể biểu hiện các khuyết biểu mô giác mạc thoáng qua, thâm nhiễm nơi trong nhu mô giác mạc và sau đó tạo thành thâm nhiễm rộng hình nhẫn. Loét giác mạc do nấm thường mạn tính hơn so với vi khuẩn thường có thâm nhiễm đặc và đôi lúc có các ổ thâm nhiễm rời rạc ở chu biên. Loét tỏa nhánh là đặc trưng của viêm giác mạc herpes simplex.
Viêm giác mạc nếu không được điều trị sớm và đúng cách có thể xảy ra những biến chứng như để lại sẹo đục làm giảm thị lực mặc dù loét giác mạc có thể lành lại sau khi điều trị.
Các biến chứng khác có thể bao gồm nhiễm trùng sâu, thủng giác mạc, di lệch mống mắt
Trường hợp giác mạc bị tổn thương nghiêm trọng, thủ thuật cấy ghép giác mạc có thể được áp dụng khi có giác mạc được hiến và chi phí cho 1 ca ghép giác mạc khá cao.
Bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ nếu xuất hiện những trường hợp sau đây:
Khả năng nhìn bị thay đổi;
Đau;
Cảm giác dị vật;
Dịch chảy ra từ mắt;
Tiền sử các vết trầy xước mắt, tiếp xúc với hóa chất hoặc các hạt bay.
Có một số nguyên nhân phổ biến sau đây dẫn đến loét giác mạc:
Viêm loét giác mạc nguyên nhân có thể do nhiễm vi khuẩn, nấm, vi rút hoặc ký sinh trùng như Acanthamoeba. Trường hợp, loét do vi khuẩn thường ở người bị cận, do thói quen đeo kính gây nên và hiếm khi do nhiễm trùng thứ phát do chấn thương hoặc viêm da do herpes simplex. Loét do Acanthamoeba (cũng phổ biến ở những trường hợp tiếp xúc với nước bị ô nhiễm trong khi đeo kính tiếp xúc) và nấm (thường là do chấn thương liên quan đến thực vật) không đau nhưng tiến triển, trong khi đó Pseudomonas aeruginosa (hầu như thường thấy ở người đeo kính áp tròng) tiến triển nhanh, gây hoại tử giác mạc sâu và rộng.
Loét có thể bắt đầu với chấn thương giác mạc, chẳng hạn như khô mắt nghiêm trọng, vật lạ làm trầy xước, xâm nhập/ đọng lại trong mắt hoặc nếu mắt bị kích ứng bởi kính áp tròng, đặc biệt là đeo kính áp tròng trong lúc ngủ hoặc không được khử trùng đầy đủ.
Loét giác mạc do virus (thường do herpesvirus) có thể tái phát do căng thẳng về thể chất hoặc có thể tái phát tự phát.
Sự thiếu hụt vitamin A và protein có thể dẫn đến hình thành vết loét giác mạc.
Khi mí mắt không khép lại đúng cách, giác mạc có thể bị khô và kích ứng. Loại kích ứng này có thể dẫn đến thương tích và phát triển thành vết loét giác mạc.
Loét giác mạc cũng có thể là do lông mi mọc vào trong, mi mắt lật vào trong (quặm, lông xiêu) hoặc viêm bờ mi.
Một số bệnh lý như mắc bệnh đái tháo đường kiểm soát không tốt… cũng là yếu tố nguy cơ gây viêm loét giác mạc.
Loét giác mạc có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị lực của bạn, gây đau đớn và làm mờ mắt. Nếu không được điều trị kịp thời, viêm loét giác mạc có thể dẫn đến các biến chứng như sẹo giác mạc, viêm mãn tính, hoặc thậm chí thủng giác mạc, làm mất thị lực vĩnh viễn. Vì vậy, việc phát hiện và điều trị sớm là rất quan trọng để bảo vệ thị lực và tránh các biến chứng nghiêm trọng.
Đeo kính áp tròng có thể tăng nguy cơ loét giác mạc vì khi đeo kính trong thời gian dài, chúng làm giảm lượng oxy đến mắt, khiến mắt dễ bị khô và dễ bị nhiễm trùng. Vi khuẩn có thể bám vào kính áp tròng từ ngón tay khi đeo hoặc từ dung dịch vệ sinh không vô trùng, và khi vi khuẩn bị mắc kẹt dưới kính, chúng có thể gây viêm nhiễm, dẫn đến loét giác mạc. Người đeo kính áp tròng có nguy cơ bị loét giác mạc cao gấp 10 lần so với người không đeo, và nguy cơ này càng cao hơn nếu đeo kính khi ngủ, với mức độ nguy hiểm tăng lên 100 lần.
Thời gian lành vết loét giác mạc phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của vết loét, nguyên nhân gây loét, phương pháp điều trị và sức khỏe tổng thể của người bệnh. Các vết loét nhẹ có thể lành trong vài tuần, trong khi những vết loét nghiêm trọng hơn có thể cần nhiều tháng để hồi phục hoàn toàn. Để biết thời gian lành vết loét chính xác, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa mắt, người sẽ đánh giá tình trạng của bạn và đưa ra kế hoạch điều trị phù hợp.
Loét giác mạc rất nguy hiểm nếu không được điều trị sớm và đúng cách. Nếu để lâu, tình trạng này có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như sẹo giác mạc, viêm mãn tính, hoặc thủng giác mạc, có thể gây mất thị lực vĩnh viễn. Vì vậy, khi có triệu chứng loét giác mạc, bạn nên đến ngay bác sĩ chuyên khoa mắt để được chẩn đoán và điều trị kịp thời nhằm tránh các biến chứng nguy hiểm.
Việc nhỏ mắt khi bị loét giác mạc là cần thiết, nhưng phải được thực hiện dưới sự chỉ định và giám sát của bác sĩ. Nếu loét giác mạc do nhiễm trùng, bác sĩ sẽ chỉ định các loại thuốc nhỏ mắt phù hợp như kháng sinh, kháng nấm hoặc kháng virus, kèm theo thuốc kháng viêm nếu cần. Người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ về liều lượng và thời gian sử dụng thuốc để đảm bảo hiệu quả điều trị và tránh biến chứng.
Hỏi đáp (0 bình luận)