Tốt nghiệp tại Đại học Y Dược Cần Thơ và sở hữu chứng chỉ Chuyên khoa I - Y học gia đình tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Đồng thời có hơn 7 năm kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực khám sàng lọc tiêm chủng.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩDương Bích Tuyền
Tốt nghiệp tại Đại học Y Dược Cần Thơ và sở hữu chứng chỉ Chuyên khoa I - Y học gia đình tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Đồng thời có hơn 7 năm kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực khám sàng lọc tiêm chủng.
Mù màu hay còn được biết đến với cái tên là rối loạn sắc tố mắt, là một bệnh về mắt, trong đó người ta có thể nhìn rõ tất cả mọi vật xung quanh nhưng không thể phân biệt được một số màu nhất định ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Bệnh không ảnh hưởng đến khả năng sống hay chức năng của các cơ quan khác của người bệnh nên người mắc bệnh vẫn có thể sống và sinh sản bình thường. Vì bệnh nhân có thể sinh sản như người bình thường đồng thời bệnh mù màu có thể một số trường hợp do gen quy định, nên bệnh có nguy cơ lây lan trong cộng đồng và thế hệ sau.
Mù màu là bệnh lý không xa lạ với chúng ta, nó điển hình bởi tình trạng rối loạn sắc tố; nghĩa là mắt không thể phân biệt được các màu sắc khác nhau của sự vật xung quanh như lục, lam, đỏ hoặc có thể bị nhầm lẫn giữa các màu này với nhau.
Bệnh lý mù màu chỉ ảnh hưởng đến khả năng nhận biết màu sắc, nên bệnh nhân vẫn có thể nhìn rõ được các sự vật xung quanh mình; tuy nhiên khả năng nhận biết về màu sắc sẽ bị giảm sút so với người bình thường; các bệnh nhân bị mù đa màu hoặc không nhìn thấy được màu nào là rất hiếm gặp.
Bệnh tuy ảnh hưởng nhiều đến khả năng nhận biết màu sắc của bệnh nhân nhưng không ảnh hưởng đến sự sinh tồn hoặc sinh sản, và ngoại trừ mù màu do thuốc hoặc hóa chất ra thì đại đa số trường hợp có liên quan đến gen di truyền nên có thể bệnh sẽ truyền lại cho thế hệ kế tiếp.
Về cơ chế bệnh mù màu, nơi chịu trách nhiệm giúp phân tích màu sắc cho mắt chính là các tế bào hình nón, các tế bào này chủ yếu tập trung ở cùng trung tâm võng mạc. Vì nguyên nhân nào đó làm các tế bào hình nón này mất đi khả năng có thể phân biệt được màu sắc thì sẽ gây nên bệnh mù màu.
Bệnh nhân không thể phân biệt được một số màu nhất định, đối với các màu khác bệnh nhân vẫn có thể cảm nhận và phân biệt được.
Mức độ nhẹ, người bệnh thường khá khó khăn trong lúc có thể phân biệt được màu xanh dương – vàng, xanh lá – đỏ. Ở cấp độ nặng hơn, bệnh nhân không thể phân biệt được các dạng màu sắc với nhau.
Khác biệt đối với người bệnh và người bình thường:
Trong trường hợp nghi ngờ bản thân hoặc người thân bị mù màu nghĩa là khó thể phân biệt được các màu sắc nhất định nên đến bệnh viện kiểm tra tình trạng và tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ.
Đối với trẻ em, trước khi bắt đầu học tập tại trường học cần có một đợt kiểm tra tổng thể kể cả về mặt thị lực và khả năng có thể phân biệt được màu sắc.
Mù màu trên thực tế không ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân, tuy nhiên bệnh lý ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt trong cuộc sống, nhưng có thể ảnh hưởng đến tâm lý của bệnh nhân vì những bất tiện cũng như tự ti trong cuộc sống.
Khi có bất cứ các triệu chứng kể trên, cần liên hệ với cơ sở y tế hoặc bác sĩ để được thăm khám và chẩn đoán bệnh.
Nguyên nhân cũng như yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến bệnh lý mù màu rất nhiều. Tuy nhiên, những nguyên nhân sau được thấy phổ biến nhất:
Rối loạn do di truyền
Đây là một trong những nguyên nhân nhắc đến bên trên liên quan đến gen di truyền, mù màu này là do bẩm sinh; theo các nghiên cứu về dịch tễ thì mù màu bẩm sinh gặp nhiều hơn ở nam giới so với nữ giới. Đối với tình trạng mù màu bẩm sinh, các trường hợp thường gặp là mất khả năng nhìn thấy màu xanh, hiếm gặp hơn là mất khả năng nhìn thấy màu vàng.
Không do yếu tố di truyền như:
Biến chứng thuốc
Một số thuốc trên thị trường điều trị các bệnh lý như thuốc huyết áp, tim mạch, rối loạn thần kinh, rối loạn cương dương, nhiễm trùng…có khả năng làm ảnh hưởng đến khả năng nhận biết và phân biệt màu sắc của mắt.
Biến chứng bệnh lý khác
Một số biến chứng bệnh lý như tiểu đường, tăng nhãn áp, tim mạch, Parkinson, Alzheimer, thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm… có thể ảnh hưởng đến thị giác và gây nên bệnh mù màu. Vị trí tác động thường là một bên mắt hoặc cả 2 mắt. Bệnh lý mù màu do biến chứng của các bệnh khác có thể giảm hoặc phục hồi sau khi bệnh nhân điều trị các bệnh lý thành công.
Lão hóa
Khi tuổi tác tăng dần, thì kể cả thị lực và khả năng phân biệt các màu sắc khác nhau cũng giảm dần theo năm tháng. Thường gặp phổ biến ở những người cao tuổi.
Mù màu có thể được phát hiện tại nhà qua một số dấu hiệu đơn giản như khó phân biệt các màu sắc nhất định (đặc biệt là đỏ, xanh lá, hoặc xanh dương) hoặc cảm thấy khó nhận diện đồ vật dựa vào màu sắc.
Bệnh mù màu có tính di truyền, đặc biệt là dạng mù màu đỏ - xanh (mù màu sắc tố) thường do gen di truyền từ mẹ sang con trai, vì gen gây mù màu nằm trên nhiễm sắc thể X.
Mù màu bẩm sinh không thể điều trị hoặc chữa khỏi vì nó liên quan đến sự thiếu hụt hoặc khiếm khuyết trong các tế bào nhạy cảm với ánh sáng trong mắt. Tuy nhiên, nếu mù màu do bệnh lý gây ra, điều trị có thể giúp cải thiện tình trạng hoặc ngừng tiến triển của bệnh. Người bị mù màu bẩm sinh có thể sử dụng các thiết bị hỗ trợ như kính áp tròng hoặc kính đặc biệt để giúp phân biệt màu sắc tốt hơn trong một số trường hợp.
Mù màu có thể phát hiện qua các bài kiểm tra thị lực như bảng Ishihara, nơi người bệnh phải nhận diện các con số hoặc hình ảnh được tạo ra từ các chấm màu khác nhau. Ngoài ra, các bác sĩ cũng có thể sử dụng các phương pháp kiểm tra khác như kiểm tra sự phân biệt màu sắc trong ánh sáng tự nhiên hoặc dùng các thiết bị chuyên dụng để đo khả năng nhận diện màu sắc.
Mù màu bẩm sinh không thể chữa khỏi, nhưng người mắc có thể sử dụng kính đặc biệt để giúp phân biệt màu sắc tốt hơn trong một số tình huống. Tuy nhiên, việc đeo kính này không phải là bắt buộc suốt đời và có thể sử dụng khi cần thiết, chẳng hạn như khi lái xe hoặc làm việc yêu cầu phân biệt màu sắc.
Hỏi đáp (0 bình luận)