Tốt nghiệp loại xuất sắc bác sĩ Đa khoa tốt nghiệp tại Liên Bang Nga, với kinh nghiệm chuyên sâu về Sản Phụ khoa và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩ Chuyên khoa 1Nguyễn Thị Khánh Vy
Tốt nghiệp loại xuất sắc bác sĩ Đa khoa tốt nghiệp tại Liên Bang Nga, với kinh nghiệm chuyên sâu về Sản Phụ khoa và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Polyp tử cung là một bệnh lý lành tính có thể ảnh hưởng đến cả phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và sau mãn kinh. Mặc dù polyp nội mạc tử cung tương đối phổ biến với triệu chứng chảy máu bất thường khi hành kinh nhưng bệnh lý này có thể được điều trị an toàn và hiệu quả bằng phương pháp cắt bỏ qua nội soi. Bài viết sau cung cấp một số thông tin để bạn đọc tham khảo về bệnh lý này.
Polyp tử cung hay còn gọi là polyp nội mạc tử cung là sự phát triển bất thường chứa các tuyến, mô đệm và mạch máu từ nội mạc tử cung. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi phổ biến nhất ở độ tuổi từ 40 đến 49,5 tuổi. Phần lớn các polyp nằm ở đáy tử cung, thường có kích thước từ khoảng từ 5mm đến lớn bằng toàn bộ khoang tử cung. Các polyp này bám vào thành tử cung bằng một cuống hoặc không có cuống. Hình thái tổng thể bên ngoài của polyp là cấu trúc nhẵn, hình cầu hoặc hình trụ và có màu nâu vàng.
Polyp nội mạc tử cung là bệnh lý được phát hiện thường xuyên nhất trong tử cung và thường là những tổn thương lành tính. Polyp nội mạc tử cung có liên quan đến khoảng 50% trường hợp chảy máu tử cung bất thường và 35% trường hợp vô sinh.
Polyp tử cung hay polyp nội mạc tử cung hầu như không có triệu chứng, đôi khi chúng có thể biểu hiện bằng một số triệu chứng như sau:
Sự chảy máu bất thường
Chảy máu tử cung bất thường là triệu chứng phổ biến nhất của polyp nội mạc tử cung. Là triệu chứng xảy ra ở khoảng 68% phụ nữ trước và sau mãn kinh. Sự chảy máu có thể là do tắc nghẽn mô đệm bên trong polyp dẫn đến ứ máu tĩnh mạch và hoại tử polyp. Kích thước, số lượng và vị trí giải phẫu của polyp dường như không tương quan với các triệu chứng chảy máu. Tình trạng chảy máu bất thường được ghi nhận cụ thể như sau:
Chậm có thai
Khi một cặp vợ chồng không dùng bất kỳ phương pháp tránh thai nào mà vẫn chưa có con trong 2 năm sau đó thì đây là một dấu hiệu đáng lưu ý cho tình trạng vô sinh.
Kinh nguyệt bất thường, chậm có thai, thậm chí là vô sinh là những triệu chứng có thể khiến cho người mắc polyp tử cung gặp nhiều rắc rối trong sinh hoạt hằng ngày, mệt mỏi, lo lắng về tình trạng sức khỏe cũng như khả năng mang thai.
Vô sinh
Polyp tử cung có liên quan đến vô sinh, tỷ lệ mắc bệnh này ở những trường hợp vô sinh nguyên phát là khoảng 30% và khoảng 15% ở vô sinh thứ phát.
Polyp tử cung có thể gây vô sinh là do sự tắc nghẽn cơ học làm cản trở sự vận chuyển tinh trùng bằng cách chặn ống cổ tử cung hoặc lối vào ống dẫn trứng. Hơn nữa, polyp có thể tạo ra phản ứng viêm nội mạc tử cung (tương tự như dụng cụ tử cung) làm cản trở quá trình cấy phôi. Chảy máu âm đạo bất thường cũng có thể gây vô sinh do giảm tần suất giao phối.
Cơ chế thứ hai mà polyp có thể gây vô sinh là thông qua các tác động sinh hóa. Polyp nội mạc tử cung liên quan đến các yếu tố metallicoproteinase (MMP), các cytokine như interferon gamma và glycodelin tăng so với nội mạc tử cung bình thường. Mức độ MMP tăng lên trong polyp nội mạc tử cung gây ra sự mất cân bằng trong nội mạc tử cung, ức chế sự làm tổ của phôi. Interferon gamma có tác dụng độc hại đối với tinh trùng và hậu quả ức chế sự phát triển của phôi thai. Glycodelin được biết là có tác dụng cản trở sự tương tác giữa tinh trùng và tế bào trứng.
Ung thư
Đa phần các polyp tử cung là lành tính tuy nhiên vẫn có một tỷ lệ nhỏ polyp tử cung là ác tính.
Khi có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào về kinh nguyệt và khả năng sinh sản, bạn nên đến gặp bác sĩ ngay để được hỗ trợ chẩn đoán và điều trị.
Cơ chế bệnh sinh và diễn biến tự nhiên của polyp nội mạc tử cung chưa rõ ràng, tuy nhiên có một số giả thuyết được đề xuất liên quan đến nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của những tổn thương này như quá trình viêm, thay đổi số lượng thụ thể hormone sinh dục, quá trình chết tự nhiên, yếu tố di truyền cũng như tăng estrogen nội sinh và sử dụng estrogen ngoại sinh.
Biến đổi vật chất di truyền: Các nghiên cứu di truyền học tế bào đã gợi ý rằng các bất thường về nhiễm sắc thể có thể có vai trò trong sự phát triển của polyp nội mạc tử cung. Polyp nội mạc tử cung phát sinh do sự sắp xếp lại nhiễm sắc thể trong các tế bào mô đệm. Ba bất thường về di truyền tế bào chính liên quan đến bệnh này bao gồm các vùng 6p21-22, 12q13-15 hoặc 7q22.
Tamoxifen: Tamoxifen (một chất chủ vận estrogen tử cung được sử dụng để điều trị ung thư vú ở phụ nữ trước và sau mãn kinh) có nguy cơ phát triển polyp nội mạc tử cung. Tỷ lệ mắc polyp tử cung, ung thư nội mạc tử cung ở phụ nữ dùng Tamoxifen cao hơn so với những người không dùng. Sử dụng Tamoxifen làm giảm mức độ ER, tăng mức độ PR trong các polyp đồng thời làm giảm mức độ chết tự nhiên của tế bào. Những kết quả này có thể hỗ trợ cho giả thuyết của họ rằng Tamoxifen thúc đẩy sự phát triển của polyp bằng cách ức chế quá trình chết theo chương trình.
Liệu pháp hormone: Phụ nữ sau mãn kinh sử dụng liệu pháp hormone (HRT) được phát hiện có tỷ lệ mắc polyp nội mạc tử cung cao hơn người không dùng. Điều này có thể là do sự kích thích liên tục của nội mạc tử cung bởi estrogen.
Béo phì: Béo phì có liên quan đến việc tăng sản xuất estrogen nội sinh thông qua việc tăng nồng độ aromatase (enzyme chuyển đổi estrogen) giúp chuyển đổi nội tiết tố androgen trong chất béo thành estrogen.
Quá trình viêm: Sự hình thành polyp nội mạc tử cung có thể là kết quả của tình trạng viêm cục bộ mãn tính ở nội mạc tử cung. Số lượng tế bào mast được tìm thấy ở polyp nội mạc tử cung cao gấp 7 lần so với nội mạc tử cung bình thường. Tế bào mast kiểm soát tình trạng viêm thông qua việc chúng tiết ra các cytokine và các yếu tố tăng trưởng. Quá trình sản xuất prostaglandin trong tế bào mast ở polyp cao hơn đáng kể so với nội mạc tử cung bình thường. Tình trạng viêm dẫn đến sự hình thành các mạch máu mới và sự phát triển của mô.
Quá trình chết tự nhiên thay đổi: Sự cân bằng giữa hoạt động phân bào và quá trình apoptosis dường như đóng một vai trò trong việc điều chỉnh sự phát triển của nội mạc tử cung bình thường trong chu kỳ kinh nguyệt. Rối loạn quá trình này cũng có thể gây bệnh.
Nhiều bằng chứng cho thấy các polyp có thể biến mất sau 1 năm mãn kinh và ung thư biểu mô nội mạc chỉ liên quan đến 20% polyp tử cung.
Xem thêm thông tin: Bệnh polyp tử cung có nguy hiểm không?
Polyp có thể tái phát, vì thế người mắc bệnh nên đến bác sĩ kiểm tra thường xuyên nếu đã điều trị.
Kích thước của polyp có thể có liên quan đến khả năng ác tính và những polyp trên 15mm được cho là có nhiều khả năng dẫn đến biến đổi ác tính hơn, tuy nhiên điều này còn gây tranh cãi.
U xơ tử cung là sự phát triển quá mức của các tế bào cơ trơn ở thành tử cung chứ không phải lớp biểu mô lót bên trong tử cung như polyp tử cung. Hai bệnh lý này có thể có triệu chứng và nguyên nhân giống nhau nhưng bản chất mô học khác nhau.
Xem thêm thông tin: Cách phân biệt polyp tử cung và u xơ tử cung bạn nên biết
Phẫu thuật cắt polyp qua nội soi tử cung dường như cải thiện tỷ lệ mang thai ở những bệnh nhân vô sinh trước đây bất kể kích thước hoặc số lượng polyp của họ. Việc phục hồi khả năng sinh sản không phụ thuộc vào kích thước của polyp được cắt bỏ. Một nghiên cứu khác liên quan đến bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cho thấy rằng phẫu thuật cắt polyp qua nội soi tử cung trước IVF mang lại cơ hội mang thai cao hơn và việc mang thai sau phẫu thuật cắt polyp thường xảy ra một cách tự nhiên trong khi chờ điều trị. Hiện nay, khuyến cáo của chuyên gia là cắt bỏ polyp nội mạc tử cung trước khi thụ tinh trong ống nghiệm.
Xem thêm thông tin: Sau khi cắt polyp tử cung có mọc lại không?
Hỏi đáp (0 bình luận)