Tốt nghiệp Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều năm trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Mặc định
Lớn hơn
Nghe tim khi khám tim là một phương pháp khám sức khỏe tim mạch quan trọng. Hãy cùng Nhà thuốc Long Châu tìm hiểu chi tiết hơn về phương pháp này qua bài viết dưới đây nhé!
Nghe tim khi khám tim là một kỹ thuật đơn giản nhưng rất quan trọng trong khám sức khỏe tim mạch. Kỹ thuật này giúp bác sĩ đánh giá hiệu quả hoạt động của tim và kịp thời phát hiện các vấn đề sức khỏe.
Có hai phương pháp chính để nghe tim: Nghe trực tiếp và nghe gián tiếp bằng ống nghe.
Bác sĩ sẽ áp tai trực tiếp vào ngực bệnh nhân, thường được thực hiện bằng cách đặt tai lên một khăn mỏng đặt trên ngực. Tuy nhiên, phương pháp này không còn được sử dụng rộng rãi do không thuận tiện, đặc biệt khi nghe vùng nách và với bệnh nhân nữ.
Phương pháp này sử dụng ống nghe, được đeo vào tai người nghe. Ống nghe bao gồm ba bộ phận chính: Dây ống nghe, màng và chuông. Dây ống nghe có chiều dài không quá 30cm, đường kính 3 - 4cm, được thiết kế dày để ngăn tạp âm. Phần màng dẫn truyền các âm tần số trên 300Hz, trong khi phần chuông dẫn truyền các âm tần số 30 - 150Hz. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay.
Bệnh nhân thường được yêu cầu nằm ngửa, nằm nghiêng sang trái hoặc ngồi khi bác sĩ tiến hành nghe tim.
Bác sĩ sẽ nghe tim ở các vị trí sau:
Quá trình khám tim bằng ống nghe bao gồm các bước sau:
Khi nghe tim, bác sĩ có thể đánh giá tình trạng sức khỏe của bệnh nhân dựa trên các dấu hiệu quan sát được. Cụ thể:
Nhịp tim bình thường ở người trưởng thành là 60 - 80 lần/phút, thường đều đặn do hệ thống thần kinh tự động điều khiển. Tuy nhiên, khi hệ thống này bị tổn thương, nhịp tim có thể nhanh, chậm hoặc loạn nhịp.
Một số trường hợp đặc biệt, bác sĩ có thể nghe thấy tiếng thứ nhất và tiếng thứ hai chồng lên nhau, tạo thành nhịp 3 hoặc 4 tiếng. Tiếng thứ hai phân đôi sinh lý thường được nghe rõ ở khoảng liên sườn 2 - 3 bên trái khi người bệnh hít vào, trong khi tiếng thứ nhất phân đôi thường nghe rõ ở vùng mỏm tim hoặc phía trong đường giữa xương đòn lên sườn 5 bên trái, đặc biệt khi người bệnh đứng.
Ngoài ra, các dấu hiệu như tiếng lắc mở van hai lá, tiếng ngựa phi cũng có thể được nghe thấy và cung cấp thông tin quan trọng để chẩn đoán bệnh lý tim mạch như hẹp van hai lá, suy tâm thất. Tuy nhiên, cần phải kết hợp với các thông tin lâm sàng và cận lâm sàng khác để xác định chính xác tình trạng bệnh.
Âm thanh tim đầu tiên được tạo ra bởi sự đóng lại của van 2 lá và van 3 lá trong pha tâm thu. Âm thanh tim thứ hai được tạo ra bởi sự đóng lại của van động mạch chủ và van động mạch phổi. Âm thanh tim đầu tiên có âm sâu và kéo dài, trong khi âm thanh tim thứ hai nghe nhỏ và gọn gàng hơn. Âm thanh đầu tiên được nghe rõ ở đỉnh của tim, trong khi âm thứ hai nghe rõ hơn ở đáy tim.
Ở một số trẻ em và thanh niên, đôi khi có thể nghe được một âm thanh tim thứ ba sau âm thanh tim thứ hai. Âm thanh tim thứ ba là âm sinh lý do lượng máu dồn mạnh từ nhĩ xuống thất ở giai đoạn đầu tâm trương. Có một âm thanh tim thứ tư nhưng khá hiếm gặp. Âm thanh tim thứ tư còn được gọi là âm tâm nhĩ, có thể được ghi lại trên điện tâm đồ.
Trong quá trình khám tim, ngoài các âm tim bình thường, bác sĩ còn có thể nghe thấy các âm tương tự như tiếng không khí thổi qua ống, được gọi là "tiếng thổi". Trên lâm sàng, các loại tiếng thổi phổ biến gồm: Tiếng thổi tâm thu, tiếng thổi tâm trương và tiếng thổi liên tục. Tiếng thổi tâm thu xuất hiện trong thời gian mạch nảy, tiếng thổi tâm trương khi mạch chìm, còn tiếng thổi liên tục nghe được ở cả hai thì. Vì vậy, cần vừa nghe tim vừa bắt mạch để phát hiện chúng.
Tiếng thổi tim được chia thành hai loại chính: Tiếng thổi thực thể và tiếng thổi chức năng. Tiếng thổi thực thể do có tổn thương ở các van tim, như viêm van 2 lá hoặc van động mạch chủ. Tiếng thổi chức năng xuất hiện khi buồng tim giãn to, khiến các van không đóng kín khi co bóp, mặc dù không có tổn thương ở van tim. Tiếng thổi chức năng thường êm nhẹ, ít lan và thường xuyên thay đổi, không có rung miu.
Tiếng thổi chức năng thường gặp ở bệnh nhân suy tim trái, khi buồng tim trái giãn to gây ra hở van 2 lá. Khi điều trị suy tim làm buồng tim nhỏ lại, tiếng thổi này sẽ biến mất. Ngược lại, tiếng thổi thực thể sẽ mạnh hơn và không mất đi khi điều trị suy tim.
Cường độ tiếng thổi được chia thành 6 mức độ, từ rất nhẹ (1/6) đến rất mạnh (6/6), dựa trên độ rõ ràng, mức độ lan tỏa và sự xuất hiện của rung miu. Tiếng thổi 1/6 ít khi được nghe và khó xác định, tiếng thổi 5/6 và 6/6 hiếm gặp do bệnh nặng. Tiếng thổi 2/6, 3/6 và 4/6 là phổ biến nhất.
Ngoài ra, còn có tiếng thổi ngoài tim, thường gặp ở động mạch phổi, có thể thay đổi hoặc biến mất khi người bệnh thay đổi tư thế hoặc hít sâu. Đây là tiếng thổi không liên quan đến bệnh lý tim.
Trong trường hợp bệnh lý, lá màng ngoài tim bị viêm nhiễm sẽ mất tính nhẵn bóng thông thường. Điều này khiến các lá màng ngoài tim không thể trượt lên nhau êm dịu như bình thường, mà thay vào đó là phát sinh tiếng cọ. Đây là các âm thanh bổ sung cho các tiếng tim bình thường, có thể nghe rõ ở gần tai, thường xuất hiện 1 hoặc 2 tiếng. Vị trí rõ nét ở vùng trước tim, gần xương ức trái, không lan ra, tiếng cọ nảy sinh và biến mất cùng một điểm.
Sự xuất hiện của tiếng cọ chứng tỏ màng ngoài tim đã bị viêm. Đây là dấu hiệu đặc trưng của bệnh viêm màng ngoài tim khô. Trong trường hợp viêm màng ngoài tim có tràn dịch, bác sĩ có thể nghe thấy tiếng cọ nhưng chỉ ở giai đoạn đầu khi lượng dịch còn ít hoặc giai đoạn cuối khi dịch đã rút hết.
Các thông tin thu được từ việc nghe tim khi khám tim giúp bác sĩ chẩn đoán nhiều vấn đề sức khỏe tim mạch. Vì vậy, khi được chỉ định nghe tim, bệnh nhân cần tuân thủ đúng hướng dẫn của bác sĩ.
Dược sĩ Đại họcNguyễn Vũ Kiều Ngân
Tốt nghiệp Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Có nhiều năm trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện đang là giảng viên cho Dược sĩ tại Nhà thuốc Long Châu.