Bác sĩ tốt nghiệp từ Đại học Y Hà Nội, có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Dinh dưỡng và Y học Dự phòng. Bác sĩ từng là giảng viên tại Trường Đại học Y tế Công cộng và cũng có kinh nghiệm thực tiễn chuyên sâu trong lĩnh vực tiêm chủng.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩNguyễn Thị Nhung
Bác sĩ tốt nghiệp từ Đại học Y Hà Nội, có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Dinh dưỡng và Y học Dự phòng. Bác sĩ từng là giảng viên tại Trường Đại học Y tế Công cộng và cũng có kinh nghiệm thực tiễn chuyên sâu trong lĩnh vực tiêm chủng.
Herpes zoster là một bệnh nhiễm virus cấp tính ở da do sự tái hoạt của vi rút varicella-zoster (VZV), một loại vi rút herpesvirus là nguyên nhân gây ra bệnh thủy đậu (thủy đậu). Sự khác biệt về biểu hiện lâm sàng giữa bệnh varicella và herpes zoster dường như phụ thuộc vào tình trạng miễn dịch của mỗi cá nhân; những người trước đó không tiếp xúc với VZV, thường là trẻ em, phát triển hội chứng lâm sàng của bệnh thủy đậu, trong khi những người có kháng thể thủy đậu lưu hành phát triển tái phát cục bộ, zoster.
Herpes zoster là bệnh nhiễm virus xảy ra khi virus varicella-zoster tái hoạt động. Triệu chứng và dấu hiệu thường là phát ban da liễu gây đau. Các triệu chứng thường bắt đầu với đau dọc theo vùng da bị ảnh hưởng, sau đó là mụn nước nổi lên sau 2 - 3 ngày. Các dấu hiệu điển hình bao gồm các mụn nước dạng Herpetiform gây đau trên nền ban đỏ. Điều trị bằng thuốc kháng virus như acyclovir, famciclovir và valacyclovir được đưa ra trong vòng 72 giờ sau khi bắt đầu có triệu chứng.
Sự tái hoạt của virus varicella-zoster (VZV) vẫn nằm im trong các hạch gốc ở lưng, thường trong nhiều thập kỷ sau khi bệnh nhân tiếp xúc ban đầu với virus ở dạng varicella (bệnh thủy đậu), dẫn đến bệnh herpes zoster (bệnh zona). Mặc dù thường là phát ban kèm theo cơn đau, nhưng nó có thể nghiêm trọng hơn nhiều. Ngoài ra, các trường hợp cấp tính thường dẫn đến đau dây thần kinh sau gáy (PHN) và gây ra gánh nặng kinh tế đáng kể.
Các biểu hiện lâm sàng có thể được chia thành ba giai đoạn sau:
Giai đoạn tiền khởi động
Các hiện tượng cảm giác dọc theo 1 hoặc nhiều mụn da, kéo dài 1 - 10 ngày (trung bình, 48 giờ).
Đau hoặc ít gặp hơn là ngứa hoặc dị cảm.
Đau đầu, viêm mống mắt, viêm màng phổi, viêm dây thần kinh cánh tay, đau tim, viêm ruột thừa hoặc bệnh trong ổ bụng khác hoặc đau thần kinh tọa.
Các triệu chứng khác như khó chịu, đau cơ, đau đầu, sợ ánh sáng, và hiếm gặp là sốt.
Giai đoạn cấp tính
Ban đỏ loang lổ, đôi khi kèm theo sự chai cứng, ở vùng da có tổn thương.
Nổi hạch khu vực, ở giai đoạn này hoặc sau đó.
Các mụn nước dạng Herpetiform được nhóm lại phát triển trên nền ban đỏ (phát hiện cổ điển).
Các phát hiện trên da thường xuất hiện đơn lẻ, đột ngột dừng lại ở đường giữa của giới hạn cảm giác bao phủ của da liên quan.
Sự xâm thực của mụn nước: Các mụn nước ban đầu rõ ràng nhưng cuối cùng là đám mây, vỡ ra, đóng vảy và không tự nhiên.
Sau khi mụn nước tiến triển, phân giải chậm các mảng ban đỏ còn lại, thường không có di chứng rõ ràng.
Sẹo có thể xảy ra nếu các lớp biểu bì và hạ bì sâu hơn bị tổn thương do quá trình bong tróc, nhiễm trùng thứ cấp hoặc các biến chứng khác.
Một số ít bị đau dữ dội mà không có mụn nước (tức là zoster sine herpete).
Các triệu chứng có xu hướng hết trong 10 - 15 ngày. Việc lành hoàn toàn các tổn thương có thể cần đến một tháng.
Giai đoạn mãn tính (PHN)
Đau dai dẳng hoặc tái phát kéo dài từ 30 ngày trở lên sau đợt nhiễm trùng cấp tính hoặc sau khi tất cả các tổn thương đã đóng vảy (9 - 45% tổng số trường hợp).
Đau thường giới hạn ở khu vực da ban đầu có liên quan.
Cơn đau có thể nghiêm trọng và mất khả năng.
Đau có thể kéo dài hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng năm.
Giải quyết cơn đau chậm đặc biệt phổ biến ở người cao tuổi.
PHN được quan sát thấy thường xuyên hơn sau các trường hợp herpes zoster mắt (HZO) và trong các trường hợp liên quan đến da trên cơ thể.
Di chứng hậu phẫu ít phổ biến hơn bao gồm giảm mê hoặc hiếm gặp hơn là giảm mê hoặc gây tê vùng tổn thương.
Các đặc điểm chung của herpes zoster ophthalmicus
Các triệu chứng và tổn thương cổ điển của herpes zoster.
Các biểu hiện nhãn khoa bao gồm viêm kết mạc, viêm củng mạc, viêm tầng sinh môn, viêm giác mạc, viêm túi lệ, đồng tử Argyll-Robertson, tăng nhãn áp, viêm võng mạc, viêm màng mạch, viêm dây thần kinh thị giác, teo thị giác, viêm dây thần kinh sau nhãn cầu, nhãn áp, co rút nắp, bệnh ptosis và liệt cơ ngoại nhãn.
Các dạng khác bao gồm:
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Virus varicella-zoster là tác nhân gây nhiễm bệnh.
Nhiễm Herpes zoster có biểu hiện đặc trưng là đau rát, ngứa tại một vùng da nhất định, thường là một bên cơ thể. Sau vài ngày, phát ban đỏ xuất hiện, kèm theo các nốt nước nhỏ, có thể vỡ ra và tạo vết loét. Ngoài ra, người bệnh còn có thể bị sốt, mệt mỏi và đau cơ.
Xăm môi không trực tiếp gây nhiễm Herpes zoster, nhưng nếu người có tiền sử nhiễm virus varicella-zoster hoặc đang có mụn rộp môi, việc xăm môi có thể làm tăng nguy cơ tái phát các triệu chứng do kích thích vùng da bị tổn thương.
Nhiễm Herpes zoster không thể điều trị dứt điểm hoàn toàn vì virus varicella-zoster vẫn tồn tại trong cơ thể và có thể tái phát khi hệ miễn dịch yếu. Tuy nhiên, việc điều trị sớm bằng thuốc kháng virus như acyclovir hoặc valacyclovir có thể giúp giảm đau, rút ngắn thời gian bệnh và giảm nguy cơ biến chứng, như đau thần kinh sau zona.
Điều trị Herpes zoster đem lại hiệu quả tốt nhất khi bắt đầu trong vòng 72 giờ kể từ khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên như đau hoặc phát ban. Việc điều trị sớm giúp giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh, rút ngắn thời gian chữa lành và giảm nguy cơ phát triển các biến chứng, đặc biệt là đau thần kinh sau zona.
Herpes zoster có thể tái nhiễm sau khi đã điều trị, mặc dù hiếm. Sau đợt nhiễm đầu tiên, virus varicella-zoster vẫn tồn tại trong cơ thể ở trạng thái tiềm ẩn và có thể tái hoạt động khi hệ miễn dịch suy yếu.
Hỏi đáp (0 bình luận)