Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêm chủng, bác sĩ luôn tận tâm trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hiện tại, bác sĩ đang giữ vai trò bác sĩ Trưởng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩPĂNG TING K'LiNa
Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêm chủng, bác sĩ luôn tận tâm trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Hiện tại, bác sĩ đang giữ vai trò bác sĩ Trưởng Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Động kinh là rối loạn chức năng thần kinh trung ương, biểu hiện qua các cơn động kinh ngắn và đột ngột do phóng điện thái quá của nơ ron thần kinh. Các cơn này có thể gây ra co giật, mất ý thức và rối loạn vận động. Đây là tình trạng mạn tính, cần theo dõi và điều trị y tế thường xuyên để kiểm soát triệu chứng.
Động kinh là một tình trạng phổ biến ảnh hưởng đến não và gây ra các cơn co giật thường xuyên. Các cơn co giật là những cơn phóng điện trong não xảy ra đột ngột, tạm thời ảnh hưởng đến cách não hoạt động. Động kinh có thể bắt đầu ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng thường bắt đầu ở trẻ em hoặc người trên 60 tuổi.
Các triệu chứng lâm sàng xảy ra đột ngột, liên quan đến vùng vỏ não bị phóng điện bao gồm biến đổi ý thức, cảm giác, tâm thần, vận động hoặc tự động.
Động kinh là sự tái diễn ≥ 2 cơn động kinh trở lên cách nhau > 24 giờ, không phải do sốt cao và các nguyên nhân cấp tính khác như rối loạn chuyển hóa, ngừng rượu đột ngột gây ra hay ngừng thuốc.
Aura (triệu chứng tiền triệu) thường là bất thường vận động, cảm giác, co cứng cơ chi trên, rối loạn tâm thần, các ảo giác nhưng chỉ kéo dài 1/10 giây, xuất hiện báo trước các cơn động kinh.
Hầu hết các cơn co giật kết thúc tự phát sau 1 đến 2 phút.
Trạng thái sau động kinh thường xuất hiện sau cơn động kinh toàn thể; thường biểu hiện giảm ý thức, lú lẫn, giấc ngủ sâu, đau cơ và đau đầu; trạng thái này kéo dài khá lâu, từ vài phút đến vài giờ. Trạng thái sau động kinh có thể bao gồm cả liệt Todd (một chứng thiếu máu thần kinh thoáng qua, thường yếu ở các chi đối diện với ổ động kinh).
Hầu hết bệnh nhân có biểu hiện bình thường về mặt thần kinh giữa các cơn co giật, mặc dù phải sử dụng liều cao các thuốc điều trị động kinh, mặc dù các thuốc này có thể làm giảm sự tỉnh táo. Sự suy giảm ý thức nặng hơn sau cơn động kinh thường liên quan đến rối loạn thần kinh gây ra cơn động kinh hơn là do chính các cơn động kinh đó.
Cơn động kinh cục bộ
Có một số thể động kinh cục bộ sau:
Động kinh cục bộ đơn giản: Gây ra các triệu chứng vận động, cảm giác hoặc tâm thần nhưng bệnh nhân không bị mất ý thức. Tùy khu vực não bị tổn thương sẽ có các triệu chứng cụ thể đặc trưng. Trong cơn động kinh kiểu Jackson (hành trình Jackson), các triệu chứng vận động thường xuất hiện ở một tay, sau đó lan rộng lên trên cánh tay. Đối với các cơn động kinh cục bộ khác, khuôn mặt sẽ ảnh hưởng trước tiên, sau đó lan rộng đến cánh tay và chân. Ngoài ra, một số cơn động kinh khởi phát tư thế đấu kiếm (cánh tay nâng lên và đầu quay về phía cánh tay đó).
Động kinh cục bộ liên tục (hiếm gặp): Các cơn động kinh vận động cục bộ, các triệu chứng thường liên quan đến một bên mặt, bàn tay hoặc cánh tay; cơn co giật tái diễn từ vài giây đến vài phút, kéo dài từ vài ngày đến nhiều năm.
Động kinh cục bộ phức tạp: Aura thường xuất hiện trước. Trong cơn động kinh, bệnh nhân thường sẽ nhìn chằm chằm. Tuy ý thức bị suy giảm nhưng bệnh nhân vẫn có nhận thức về môi trường xung quanh. Những triệu chứng sau cũng có thể xảy ra: Động tác tự động vùng miệng (tự động chép miệng hoặc nhai), động tác tự động của các chi, tạo ra âm thanh vô nghĩa, kháng cự lại sự hỗ trợ của người khác, loạn trương lực của đầu chi đối diện với ổ động kinh, quay đầu và mắt về hướng đối diện với ổ động kinh, động kinh có nguồn gốc từ mặt trong thùy trán hoặc vùng trán - ổ mắt thường có động tác kiểu đạp xe ở hai chân.
Sau 1 - 2 phút, các triệu chứng vận động sẽ giảm dần, nhưng tình trạng mất phương hướng và lú lẫn có thể kéo dài thêm 1 - 2 phút. Bệnh nhân thường mất trí nhớ sau cơn động kinh.
Những bất thường về trí nhớ ngôn ngữ phản ánh động kinh thùy thái dương trái. Bất thường về trí nhớ không gian hình ảnh phản ánh động kinh thùy thái dương phải.
Cơn động kinh toàn thể
Thường mất ý thức khi khởi phát, chức năng vận động bất thường.
Cơn co giật ở trẻ em: Đặc trưng bởi cúi gập người về phía trước đồng thời gấp và khép đột ngột cánh tay, kéo dài vài giây và lặp lại nhiều lần trong ngày. Thường xảy ra trong 5 năm đầu tiên của trẻ, sau đó tiến triển các thể động kinh khác.
Các cơn động kinh vắng ý thức: Điển hình là cơn động kinh gây mất ý thức từ 10 - 30 giây bao gồm giật mi mắt, mất hoặc không mất trương lực cơ. Bệnh nhân ngừng hoạt động đột ngột và khôi phục ngay lập tức sau đó, không có triệu chứng và không biết có cơn động kinh đã xảy ra. Những cơn động kinh này có thể xảy ra nhiều lần trong ngày nếu không được điều trị. Các cơn thường xảy ra khi đang ngồi yên, có thể bị thúc đẩy bởi tăng thông khí.
Các cơn động kinh vắng ý thức không điển hình: Là một thể động kinh nặng bắt đầu trước 4 tuổi, thường xảy ra như là một phần của hội chứng Lennox-Gastaut. Cơn động kinh này khác với cơn động kinh vắng ý thức điển hình như sau:
Nhiều bệnh nhân chậm phát triển, tiền sử tổn thương hệ thần kinh, kết quả khám thần kinh bất thường và các loại động kinh khác; thường kéo dài đến tuổi trưởng thành.
Động kinh mất trương lực:Thường là một phần của hội chứng Lennox-Gastaut, trẻ em hay gặp hơn. Đặc trưng bởi sự mất trương lực cơ và mất ý thức. Trẻ té gục xuống đất có nguy cơ chấn thương, nguy hiểm nhất là chấn thương đầu.
Động kinh tăng trương lực: Thường xảy ra ở trẻ em và thường gặp nhất là trong thời gian ngủ. Nguyên nhân thường là hội chứng Lennox-Gastaut. Tăng trương lực (duy trì) sự co của các cơ đầu chi, sau đó lan rộng toàn chi. Động kinh tăng trương lực thường kéo dài khoảng 10 - 15 giây và khi giai đoạn tăng trương lực kết thúc thì các cơn co giật nhanh có thể xảy ra.
Các cơn tăng trương lực - co giật thường là:
Cơn động kinh toàn thể nguyên phát: Thường bắt đầu bằng tiếng thét, mất ý thức và ngã xuống, tiếp theo là sự co cơ (luân phiên co và duỗi cơ), sự chuyển động của đầu, thần mình và các cơ ở chi. Đôi khi bệnh nhân cắn lưỡi, sùi bọt mép và đại tiểu tiện không tự chủ. Động kinh thường kéo dài 1 - 2 phút. Không có aura.
Các cơn động kinh toàn thể thứ phát: Thường khởi phát bằng cơn động kinh cục bộ, sau đó tiến triển lên.
Cơn động kinh co giật cơ: Có thời gian xảy ra ngắn và chớp nhoáng như co giật thân mình, có giật một hoặc vài chi, lặp đi lặp lại rồi tiến triển thành co giật toàn thân. Các cơn co giật xảy ra ở một bên hoặc cả hai bên, bệnh nhân không mất ý thức.
Động kinh ở thanh thiếu niên: Là một hội chứng động kinh đặc trưng bởi cơn vắng ý thức, cơn co giật, tăng trương lực - co giật và thường xuất hiện ở tuổi vị thành niên. Chúng bắt đầu bằng cơn co giật hai bên và đồng bộ. Khoảng 90% có cơn tăng trương lực - co giật toàn thân. Động kinh xảy ra khi thức giấc vào buổi sáng, đặc biệt là khi bệnh nhân thiếu ngủ hoặc uống rượu. Khoảng 1/3 bệnh nhân có thể xảy ra cơn động kinh vắng ý thức.
Sốt cao co giật: Trong trường hợp không có nhiễm trùng nội sọ; chúng được xem là một loại động kinh. Chúng ảnh hưởng đến khoảng 4% trẻ em 3 - 5 tuổi. Các cơn động kinh do sốt lành tính thường kèm theo cơn tăng trương lực - co giật toàn thân, ngắn và đơn độc. Sốt cao co giật phức tạp thường tập trung, lặp lại ≥ 2 lần trong 1 ngày hoặc kéo dài hơn 15 phút. Có khoảng 2% bệnh nhân có sốt cao co giật tiến triển thành bệnh động kinh sau đó.
Trạng thái động kinh
Trạng thái động kinh co giật toàn thể: Gồm một hoặc các điều sau đây:
Tăng trương lực - co giật kéo dài từ 5 đến 10 phút.
Có ít nhất 2 cơn co giật mà ý thức bệnh nhân không tỉnh lại hoàn toàn sau cơn.
Động kinh toàn thể kéo dài hơn 1 tiếng có thể gây tổn thương não vĩnh viễn nếu không được điều trị và kéo dài hơn nữa có thể gây tử vong. Tăng nhịp tim và thân nhiệt.
Trạng thái động kinh không co giật bao gồm trạng thái động kinh vắng ý thức và trạng thái động kinh cục bộ phức tạp.
Tìm hiểu thêm: Tác hại của bệnh động kinh đối với sức khỏe tổng thể của người bệnh
Có thể gặp những biến chứng hoặc tai nạn lao động, tai nạn sinh hoạt khi bệnh nhân lên cơn co giật, động kinh do suy giảm ý thức, mất khả năng của các động tác hữu ý. Cơn động kinh kéo dài có thể làm tổn thương não, khiến não thiếu oxy, tắc nghẽn đường thở.
Tìm hiểu thêm: Các biến chứng động kinh là gì?
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Các tổn thương thực thể hoặc các rối loạn chuyển hóa não như: U não, chấn thương sọ não, bệnh lý tai biến mạch máu não, nhiễm khuẩn nội sọ: Viêm não, viêm màng não, áp xe não hay nguyên nhân di truyền đều có thể gây nên cơn động kinh.
Động kinh tuỳ theo lứa tuổi:
1. Quyết định số 2058/QĐ-BYT ngày 14 tháng 5 năm 2020 Về việc Về việc ban hành tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số rối loạn tâm thần thường gặp”.
2. MSD Manual: https://www.msdmanuals.com/professional/neurologic-disorders/seizure-disorders/seizure-disorders
3. Sức khỏe đời sống: https://suckhoedoisong.vn/che-do-an-cho-nguoi-benh-dong-kinh-169103033.htm
Bệnh động kinh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn ở trẻ em và người già.
Trên thực tế, với phương pháp điều trị chuẩn, bệnh động kinh có thể được kiểm soát thông qua điều trị bằng thuốc, đạt được chất lượng cuộc sống như người bình thường và có thể ngừng sử dụng thuốc lâu dài.
Bệnh động kinh khi không được kiểm soát tốt, có thể ảnh hưởng đến khả năng học tập và sự chú ý của người bệnh. Tuy nhiên, hầu hết bệnh động kinh có thể được kiểm soát có thể học tập, làm việc và hòa nhập xã hội như người bình thường.
Bệnh động kinh ở trẻ em có thể được ngăn ngừa ở một mức độ nhất định. Nguy cơ mắc bệnh động kinh ở trẻ em có thể được giảm bớt bằng các phương pháp sau:
Động kinh là một bệnh mãn tính được đặc trưng bởi các cơn co giật tái phát vô cớ. Một cơn động kinh đơn lẻ có thể là một triệu chứng thoáng qua của sốt, mất cân bằng điện giải, nhiễm trùng nội sọ,... Điều đó không có nghĩa là động kinh, nhưng vẫn cần phải hoàn thành việc kiểm tra để loại trừ.
Hỏi đáp (0 bình luận)