Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Tăng động còn có tên gọi khác là rối loạn tăng động giảm chú ý (Attention-deficit/hyperactivity disorder - ADHD) là một hội chứng bao gồm không chú ý, hấp tấp/bốc đồng và hiếu động thái quá. 3 dạng tăng động chủ yếu là giảm chú ý, hiếu động/bốc đồng, và kết hợp cả hai dạng trên. Chẩn đoán dựa vào các tiêu chí lâm sàng. Điều trị thường bằng thuốc hướng thần, liệu pháp hành vi, và các can thiệp giáo dục.
Tăng động được coi là một rối loạn phát triển thần kinh. Rối loạn phát triển thần kinh là các tình trạng thần kinh xuất hiện sớm ở thời thơ ấu, khoảng thời gian trước khi nhập học, làm suy giảm sự phát triển của các chức năng cá nhân, xã hội, học tập và nghề nghiệp. Dẫn đến khó khăn trong việc thu nhận, duy trì hoặc áp dụng các kỹ năng hoặc thông tin.
Rối loạn phát triển thần kinh có thể bao gồm rối loạn chức năng ở một hoặc nhiều điều sau đây: Chú ý, trí nhớ, nhận thức, ngôn ngữ, tương tác xã hội hoặc giải quyết vẫn đề. Các rối loạn phát triển thần kinh phổ biến khác bao gồm rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn học tập (ví dụ: Chứng khó đọc) và chậm phát triển trí tuệ.
Bệnh thường xảy ra trước khi trẻ 4 tuổi và không thay đổi trước 12 tuổi. Độ tuổi cao nhất để chẩn đoán là từ 8 đến 10 tuổi; tuy nhiên, những trẻ bị tăng động ở dạng giảm chú ý có thể không chẩn đoán được cho đến sau tuổi vị thành niên.
Các triệu chứng và dấu hiệu tăng động chính bao gồm:
Tính bốc đồng, hấp tấp là các hành động vội vàng có khả năng dẫn đến kết quả tiêu cực (ví dụ chạy qua đường mà không quan sát; đột nhiên nghỉ học hoặc nghỉ việc bất ngờ).
Hiếu động thái quá bao gồm các hoạt động vận động quá mức. Trẻ em, đặc biệt là những trẻ nhỏ hơn, có thể gặp khó khăn khi ngồi yên (ví dụ như ở trường học hoặc nhà thờ). Ở người bệnh lớn tuổi có thể chỉ là thao thức, bồn chồn hay nói nhiều - đôi khi đến mức làm những người xung quanh mệt mỏi.
Giảm chú ý và bốc đồng, hấp tấp ngăn cản sự phát triển khả năng suy nghĩ, học tập và lập luận. Trẻ em mắc chứng tăng động thiếu tập trung chủ yếu có xu hướng gặp khó khăn khi học thụ động (tiếp nhận thông tin từ giáo viên truyền đạt), đòi hỏi sự tập trung liên tục và hoàn thành những yêu cầu.
Nhìn chung, khoảng 20 - 60% trẻ bị tăng động giảm khả năng học tập nhưng một số rối loạn chức năng học đường xảy ra ở hầu hết trẻ tăng động do thiếu chú ý (dẫn đến bỏ sót chi tiết) và bốc đồng (dẫn đến trả lời mà không suy nghĩ kỹ câu hỏi).
Mặc dù không có xét nghiệm cụ thể hoặc các kết quả xét nghiệm liên quan đến tăng động, các dấu hiệu có thể bao gồm:
Mặc dù triệu chứng và dấu hiệu tăng động có khuynh hướng giảm đi theo tuổi, thanh thiếu niên và người lớn có thể khó biểu hiện hơn. Các hậu quả có thể xảy ra bao gồm:
Ở thanh thiếu niên và tuổi trưởng thành biểu hiện của tăng động chủ yếu là việc thất bại trong học tập và khó học tập các hành vi xã hội. Thanh thiếu niên và người lớn bị tăng động dạng hấp tấp, bốc đồng có thể làm tăng tỷ lệ rối loạn nhân cách và hành vi chống đối xã hội. Những người mắc chứng tăng động dường như điều chỉnh tốt hơn với công việc hơn là với việc học tập và gia đình, đặc biệt nếu họ có thể tìm được những công việc không đòi hỏi sự tập trung cao độ để thực hiện.
Khi thấy trẻ có triệu chứng của rối loạn tăng động giảm chú ý cha mẹ nên đưa trẻ đến gặp bác sĩ đi khám ngay. Nếu được phát hiện và điều trị sớm thì tiên lượng với bệnh này sẽ cao hơn khi điều trị muộn.
Tăng động không có nguyên nhân cụ thể. Các nguyên nhân tiềm ẩn liên quan đến các yếu tố sinh hóa, di truyền, sinh lý, hệ thần kinh vận động - cảm giác và các yếu tố hành vi.
Một số yếu tố nguy cơ như: Cân nặng lúc sinh < 1,5 kg, chấn thương đầu, có cơn ngưng thở khi ngủ, thiếu sắt, phơi nhiễm chì cũng như rượu, cocaine và thuốc lá trước khi sinh. Khoảng ít hơn 5% trẻ em bị chứng tăng động có bằng chứng tổn thương thần kinh.
Ngày càng có nhiều các bằng chứng, dữ liệu về sự bất thường trong các hệ thống noradrenergic và dopaminergic với sự giảm giảm kích thích hoặc giảm hoạt động ở vùng thân não trên và các vùng trước của não giữa.
ADHD có tính di truyền trong gia đình. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, nếu có người thân mắc ADHD, bạn sẽ có nguy cơ cao hơn mắc phải tình trạng này. Điều này cho thấy rằng yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ADHD.
Theo các nhà khoa học, di truyền đóng vai trò chính trong sự phát triển của ADHD, vì vậy bạn không thể hoàn toàn ngăn ngừa tình trạng này xảy ra. Tuy nhiên, có một số yếu tố rủi ro mà bạn có thể tránh để giảm nguy cơ mắc ADHD cho con. Nếu bạn đang mang thai, hãy tránh xa các chất độc, như rượu, thuốc lá và ma túy, vì việc này có thể giúp giảm nguy cơ. Mặc dù các nhà nghiên cứu vẫn chưa hiểu rõ cách hiệu quả để giảm tỷ lệ mắc ADHD, nhưng việc chăm sóc sức khỏe trong thai kỳ có thể là một bước quan trọng.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), gần 11% trẻ em từ 2 đến 17 tuổi ở nước này đã được chẩn đoán mắc rối loạn tăng động giảm chú ý. Trên toàn cầu, khoảng 7,2% trẻ em cũng được xác định mắc phải rối loạn này. Đặc biệt, tỷ lệ mắc ADHD ở bé trai cao gấp đôi so với bé gái.
ADHD không được coi là một dạng của tự kỷ. Tuy nhiên, cả rối loạn phổ tự kỷ và ADHD đều có đa số triệu chứng tương tự và thuộc loại rối loạn phát triển thần kinh. Hơn nữa, nếu trẻ em bị mắc một trong hai rối loạn này, nguy cơ mắc phải rối loạn kia cũng có thể tăng cao. Điều này cho thấy sự liên quan giữa chúng trong việc phát triển và ảnh hưởng đến trẻ.
ADHD không thể được chữa trị triệt để, nhưng có thể quản lý các triệu chứng hiệu quả. Đối với một số người, triệu chứng của ADHD có thể kéo dài và ảnh hưởng đến họ suốt cuộc đời.
Xem thêm thông tin: Trẻ bị tăng động giảm chú ý có chữa được không hay mang bệnh suốt đời?
Hỏi đáp (0 bình luận)