Tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế, hoàn thành Chuyên khoa 1 Bác sĩ Y Học Gia Đình tại Đại học Y Dược Huế năm 2023. Có 4 năm kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực tiêm chủng, hiện đang công tác tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu với vai trò bác sĩ.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩ Chuyên khoa 1Trương Đình Ti Thi
Tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế, hoàn thành Chuyên khoa 1 Bác sĩ Y Học Gia Đình tại Đại học Y Dược Huế năm 2023. Có 4 năm kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực tiêm chủng, hiện đang công tác tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu với vai trò bác sĩ.
Gan là một cơ quan lớn nằm dưới xương sườn bên phải bụng, chiếm khoảng 2% trọng lượng cơ thể. Gan đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng đối với cơ thể như chuyển hóa, tổng hợp các chất, chức năng khử độc… Do đó việc quan tâm đến chức năng của gan cũng được mọi người ngày càng chú ý và xem trọng. Trong đó có thể kể đến bệnh viêm gan tự miễn. Là bệnh mà hiện nay người ta vẫn chưa hiểu hết được nguyên nhân chính xác gây ra.
Viêm gan tự miễn (Autoimmune Hepatitis - AIH) là khi hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công nhầm các tế bào gan, dẫn đến viêm mãn tính và tổn thương gan. Nguyên nhân chính xác vẫn chưa các nhà khoa học xác nhận tuy nhiên bệnh thường xuất hiện ở những người mắc các bệnh tự miễn khác, cho thấy mối liên quan đến yếu tố di truyền và môi trường. Tình trạng này cần được quản lý cẩn thận để ngăn chặn các biến chứng nghiêm trọng.
Viêm gan tự miễn gây viêm mãn tính ở gan, có thể gây tổn thương nghiêm trọng theo thời gian. Giống như các loại viêm gan khác, viêm gan tự miễn nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời sẽ gây ra nhiều biến chứng nặng như xơ gan, suy gan.
Viêm gan tự miễn được chia thành hai loại chính:
Viêm gan tự miễn là một bệnh không phổ biến. Không phải ai cũng có triệu chứng, đôi khi các triệu chứng xuất hiện muộn sau khi bệnh đã ảnh hưởng đến chức năng gan. Tuy nhiên, có một số triệu chứng ban đầu phổ biến có thể kể đến như:
Khi bệnh tiến triển làm suy giảm chức năng gan, dịch mật tích tụ trong máu. Có thể gây ra các triệu chứng sau:
Các triệu chứng muộn có thể xảy ra là:
Như đã đề cập ở trên, bệnh viêm gan tự miễn là một bệnh lý nguy hiểm. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời bệnh sẽ gây ra các biến chứng nghiêm trọng về vấn đề sức khỏe.
Các biến chứng nghiêm trọng của viêm gan tự miễn bao gồm:
Vì các triệu chứng của viêm gan tự miễn thường không điển hình và trông giống bệnh thông thường khác khác nên khi có bất kỳ vấn đề sức khỏe nào chúng ta nên đến gặp bác sĩ ngay để thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết để có phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm nhất.
Đến thời điểm hiện tại, nguyên nhân chính xác gây ra viêm gan tự miễn vẫn chưa được làm rõ, nó được cho là sự kết hợp giữa môi trường (thuốc kê đơn và tình trạng nhiễm trùng), di truyền và miễn dịch.
Một số thuốc được cho là có ảnh hưởng tới sự mắc bệnh viêm gan tự miễn như nitrofurantoin, minocycline và hydralazine.
Một số bệnh nhiễm trùng như viêm gan siêu vi (viêm gan siêu vi A, B, C), virus Herpes simplex và cytomegalovirus có thể liên quan khởi phát bệnh.
Nếu không điều trị, bệnh có thể tiến triển thành xơ gan, suy gan, và thậm chí là ung thư gan. Quá trình viêm kéo dài làm tổn thương gan nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chức năng chuyển hóa và thải độc của cơ thể.
Bệnh nhân cần tránh rượu bia, hạn chế thức ăn nhiều chất béo, bổ sung vitamin và khoáng chất, duy trì trọng lượng cơ thể ổn định và theo dõi sức khỏe định kỳ. Tinh thần lạc quan và nghỉ ngơi hợp lý cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát bệnh.
Yếu tố nguy cơ bao gồm di truyền, giới tính (phụ nữ dễ mắc hơn nam giới), nhiễm virus (như viêm gan A, B, C), sử dụng một số loại thuốc và tiếp xúc với hóa chất độc hại.
Corticosteroid (như prednisolone) thường được sử dụng để giảm viêm. Thuốc ức chế miễn dịch như azathioprine giúp ngăn chặn hệ thống miễn dịch tấn công gan. Trong trường hợp bệnh nặng, có thể cần ghép gan.
Viêm gan tự miễn được chia thành hai loại chính: Loại 1 và loại 2. Loại 1 phổ biến ở người lớn, đặc biệt là phụ nữ, và thường liên quan đến các bệnh tự miễn khác như viêm khớp dạng thấp. Loại 2 ít phổ biến hơn, chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em và thanh thiếu niên, thường tiến triển nhanh và nghiêm trọng hơn.
Hỏi đáp (0 bình luận)