Hoàn thành chương trình Thạc sĩ Y học cổ truyền tại Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam. Có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực Cơ - Xương - Khớp và lĩnh vực Xét nghiệm.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Thạc sĩ - Bác sĩTrần Thị Mỹ Linh
Hoàn thành chương trình Thạc sĩ Y học cổ truyền tại Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam. Có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực Cơ - Xương - Khớp và lĩnh vực Xét nghiệm.
Bệnh Kohler là bệnh về xương chỉ gặp ở trẻ em. Mặc dù nguyên nhân chưa được hiểu đầy đủ nhưng người ta cho rằng nguyên nhân là do xương thuyền bị chèn ép trước khi cốt hóa dẫn đến sự bất thường về lưu lượng máu nuôi xương và gây hoại tử vô mạch. Bệnh Kohler thường gặp nhất ở trẻ nam từ 4 đến 7 tuổi. Bệnh lý này thường xảy ra một bên chân và có khoảng 25% bệnh Kohler xuất hiện ở cả hai bên. Bệnh Kohler có thể tự khỏi với tiên lượng tốt.
Bệnh Kohler được bác sĩ X-quang người Đức Alban Köhler (1874-1947) mô tả lần đầu tiên vào năm 1908 và đề cập đến tình trạng hoại tử vô mạch ở xương thuyền bàn chân. Bệnh Kohler là bệnh chỉ gặp ở trẻ em và thường gặp nhất ở nam giới từ 4 đến 7 tuổi.
Mặc dù nguyên nhân chưa được hiểu đầy đủ nhưng người ta cho rằng nguyên nhân gây nên bệnh lý này là do xương thuyền bị chèn ép trước khi cốt hóa dẫn đến sự bất thường về lưu lượng máu nuôi xương thuyền dẫn đến hoại tử vô mạch.
Bệnh Bệnh Kohler thường xảy ra một bên chân với các biểu hiện như đau, sưng ở giữa bàn chân và/hoặc đi khập khiễng ở một bên bàn chân. Trên phim X-quang bàn chân, xương thuyền sẽ có các đặc điểm tiêu biểu của hoại tử vô mạch (AVN) bao gồm tình trạng xơ cứng, phân mảnh và dẹt xương.
Bệnh Kohler có thể không có triệu chứng, tuy nhiên nếu có triệu chứng thì bệnh nhân thường đau vùng mu bàn chân. Khi khám thực thể bệnh nhân có thể bị đau ở một điểm trên xương thuyền có thể kèm nóng và sưng, đồng thời bệnh nhân có thể có biểu hiện khập khiễng do đau,... Tóm lại bệnh Kohler được đặc trưng bởi các triệu chứng:
Bệnh Kohler hiếm gặp nhưng có thể gây đau đớn và suy giảm sức khỏe đáng kể khi đi lại ở trẻ mắc bệnh. Hầu hết các trường hợp đều được điều trị khỏi trong khoảng hai năm sau lần chẩn đoán đầu tiên đồng thời tình trạng này thường không gây ra bất kỳ vấn đề lâu dài nào.
Trong hầu hết các trường hợp bệnh Kohler không gây ra bất kỳ biến chứng lâu dài nào nhưng có thể gây đau đớn và khó chịu đáng kể khi bệnh xuất hiện.
Hãy đến gặp bác sĩ ngay khi có bất kỳ triệu chứng khó chịu nào kể trên để được tư vấn và điều trị kịp thời.
Xương thuyền có nguồn cung cấp máu kép (cấp máu từ 2 nguồn). Một nhánh của động mạch mu chân cung cấp máu cho mặt sau của xương và nguồn cấp máu cho gan chân xuất phát từ nhánh gan chân trong của động mạch chày sau.
Cả hai nguồn cung cấp máu ở lưng và lòng bàn chân đều đi vào xương thuyền để cung cấp máu cho một phần ba trong và ngoài của xương. Điều này tạo ra một vùng vô mạch ở 1/3 trung tâm của xương thuyền. Các lỗ mạch máu của các nhánh xuyên giúp cung cấp máu cho vùng vô mạch này và được tìm thấy ở các bề mặt lưng, gan chân, trong và ngoài của xương thuyền.
Tuy nhiên, trong một nghiên cứu trên 100 xương thuyền tử thi thì có đến 97% lỗ mạch máu nhỏ hơn 1 mm. Về lý thuyết, bất kỳ sự chèn ép nào lên các lỗ mạch máu nhỏ này đều có thể dẫn đến giảm lưu lượng máu và khiến xương thuyền có nguy cơ bị hoại tử vô mạch.
Ở trẻ em, xương thuyền là xương cuối cùng được cốt hóa. Ở bé gái, nó cốt hóa từ 18 đến 24 tháng và ở bé trai từ 30 đến 36 tháng tuổi. Lý thuyết này chỉ ra rằng do quá trình cốt hóa chậm của xương thuyền nên nó yếu hơn các xương khác của cổ chân.
Khi trẻ lớn lên và trọng lượng cơ thể nặng hơn, xương thuyền có thể bị nén giữa xương sên và xương hình nêm vốn đã cứng. Việc chèn ép vào xương thuyền chưa được cốt hóa dẫn đến chèn ép các mạch xuyên vùng trung tâm gây thiếu máu cục bộ vùng này và sau đó tình trạng hoại tử vô mạch.
Tóm lại mặc dù lý do chính xác dẫn đến việc mất nguồn cung cấp máu cho xương thuyền vẫn chưa được biết rõ, nhưng tình trạng này được cho là có liên quan đến những vấn đề sau:
Nếu bệnh xương Köhler được phát hiện và điều trị kịp thời, hầu hết trẻ sẽ phục hồi hoàn toàn mà không gặp vấn đề lâu dài về khả năng vận động. Tuy nhiên, nếu bệnh không được điều trị đúng cách hoặc bị bỏ qua, trẻ có thể gặp tình trạng biến dạng xương, mất vòm bàn chân và hạn chế vận động. Việc tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ và theo dõi sức khỏe định kỳ là rất quan trọng để đảm bảo sự phục hồi tối ưu.
Bệnh xương Köhler tiến triển qua ba giai đoạn chính: Đầu tiên là hoại tử xương do thiếu máu nuôi dưỡng, tiếp theo là giai đoạn xương tái hấp thu và cuối cùng là quá trình tái tạo xương. Trong giai đoạn hoại tử, trẻ cảm thấy đau và khó chịu ở vùng giữa bàn chân. Giai đoạn tái hấp thu làm xương yếu và dễ tổn thương, dẫn đến sưng và hạn chế vận động. Cuối cùng, nếu được điều trị đúng cách, xương sẽ tái tạo và phục hồi gần như hoàn toàn.
Điều trị bảo tồn thường bao gồm nghỉ ngơi, hạn chế hoạt động thể chất gây áp lực lên bàn chân, sử dụng giày chỉnh hình để hỗ trợ vòm bàn chân, hoặc bó bột để cố định vùng bị tổn thương. Thuốc giảm đau có thể được kê đơn để kiểm soát triệu chứng. Vật lý trị liệu giúp tăng cường sức mạnh cơ bắp và duy trì sự linh hoạt của khớp bàn chân.
Phát hiện sớm bệnh xương Köhler đòi hỏi cha mẹ chú ý đến các dấu hiệu bất thường như trẻ đi khập khiễng, than phiền đau ở giữa bàn chân, hoặc hạn chế di chuyển. Khi khám lâm sàng, bác sĩ sẽ kiểm tra vùng xương thuyền và yêu cầu chụp X-quang bàn chân. Hình ảnh X-quang thường cho thấy dấu hiệu xẹp xương, mờ xương hoặc vùng xương không đều.
Khi không được điều trị đúng cách, bệnh xương Köhler có thể gây ra biến dạng xương thuyền, mất vòm bàn chân và dẫn đến viêm khớp sớm. Trẻ có thể gặp khó khăn trong việc đi lại lâu dài, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Việc phát hiện sớm và tuân thủ phác đồ điều trị là yếu tố then chốt để ngăn ngừa biến chứng.
Hỏi đáp (0 bình luận)