Tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế, hoàn thành Chuyên khoa 1 Bác sĩ Y Học Gia Đình tại Đại học Y Dược Huế năm 2023. Có 4 năm kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực tiêm chủng, hiện đang công tác tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu với vai trò bác sĩ.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩ Chuyên khoa 1Trương Đình Ti Thi
Tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế, hoàn thành Chuyên khoa 1 Bác sĩ Y Học Gia Đình tại Đại học Y Dược Huế năm 2023. Có 4 năm kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực tiêm chủng, hiện đang công tác tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu với vai trò bác sĩ.
Bệnh tích protein phế nang (Pulmonary alveolar proteinosis - PAP) là một bệnh phổi hiếm gặp liên quan đến sự tích tụ một hoạt chất bề mặt trong phế nang do độ thanh thải của chất này giảm. Tình trạng này có thể là bẩm sinh, thứ phát hoặc tự miễn dịch. PAP tự miễn là cơ chế sinh lý gây bệnh phổ biến nhất, chiếm 90% các trường hợp được ghi nhận.
Bệnh tích protein phế nang phổi (PAP) được mô tả lần đầu tiên vào năm 1958 bởi Samuel H. Rosen. Kể từ thời điểm đó, sự hiểu biết của các bác sĩ lâm sàng về căn bệnh hiếm gặp này đã được cải thiện đáng kể.
Các báo cáo ban đầu về bệnh này mô tả bệnh là một tình trạng suy hô hấp thứ phát do sản xuất quá mức một protein hoạt động bề mặt trong phế nang. Sự gia tăng tích tụ chất này được cho là hậu quả của việc hít phải các chất kích thích từ môi trường hoặc tác nhân lây nhiễm khác. Ban đầu bệnh này được gọi là PAP mắc phải hoặc vô căn.
Hiện tại, các bác sĩ chỉ ra rằng có 3 con đường riêng biệt dẫn đến sự tích lũy protein hoạt động bề mặt trong phế nang là bẩm sinh, thứ phát và tự miễn dịch. Cả 3 con đường này dẫn đến giảm độ thanh thải của chất hoạt động bề mặt này thay vì tăng sản xuất chúng.
PAP tự miễn là cơ chế sinh lý bệnh phổ biến nhất, chiếm 90% các trường hợp được ghi nhận. PAP tự miễn dịch được gây ra do kháng thể immunoglobulin (IgG) - kháng thể kháng kích thích tố đại thực bào kháng bạch cầu hạt (anti-GM-CSF), làm giảm chức năng của đại thực bào phế nang.
PAP thứ phát tuy thiếu kháng thể kháng GM-CSF nhưng nguyên nhân gây bệnh đã làm giảm chức năng của các đại thực bào thứ phát như các khối u ác tính về huyết học (hội chứng loạn sản tủy, bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính) hoặc các bệnh suy giảm miễn dịch nguyên phát (suy giảm miễn dịch thông thường, hội chứng DiGeorge và trong một số bệnh khác) nên chức năng của đại thực bào phế nang cũng giảm.
PAP bẩm sinh ít phổ biến nhất và là kết quả của sự đột biến gen trong protein thụ thể GM-CSF hoặc protein chất hoạt động bề mặt.
Biểu hiện lâm sàng của PAP thay đổi từ nhẹ nhàng đến đột ngột nặng nề và các triệu chứng thường không đặc hiệu.
Khó thở là triệu chứng phổ biến nhất của PAP. Hầu hết những người mắc bệnh đều khó thở khi tập thể dục, làm việc nặng, nhưng một số người cũng bị khó thở khi nghỉ ngơi. Các triệu chứng khác của PAP bao gồm:
Bệnh nhân có thể không có triệu chứng tại thời điểm xuất hiện (tình trạng này chiếm khoảng 33%).
PAP có thể gây suy hô hấp đe dọa tính mạng trong những trường hợp nặng. Tuy nhiên, diễn biến của bệnh có thể tự thuyên giảm tự nhiên đến ổn định hoặc ngược lại, diễn tiến đến tử vong do suy hô hấp hoặc nhiễm trùng thứ phát.
Bệnh nhân mắc PAP có nguy cơ mắc nhiễm trùng cơ hội cao hơn (khoảng 5% bệnh nhân PAP bị nhiễm trùng cơ hội). Phổi là vị trí nhiễm trùng phổ biến nhất, mặc dù nhiễm trùng ngoài phổi chiếm khoảng 32% nhiễm trùng cơ hội ở bệnh nhân PAP.
Nocardia và Mycobacterium tuberculosis là 2 nguyên nhân nhiễm trùng cơ hội được báo cáo phổ biến nhất trong PAP. Nguyên nhân nhiễm nấm được ghi nhận bao gồm Histoplasma, Aspergillus, Cryptococcus và Blastomyces. Các nguyên nhân nhiễm trùng khác được ghi nhận bao gồm Acinetobacter, Coccidiodies, Mucorales và Streptomyces.
Khi có bất kỳ triệu chứng nào kể trên, bạn đều cần đến gặp bác sĩ ngay.
Miễn dịch
PAP tự miễn dịch là hậu quả trực tiếp liên quan đến kháng thể chống lại GM-CSF. Đã có suy đoán rằng khói thuốc lá hoặc các bệnh truyền nhiễm kích thích sự phát triển của các tự kháng thể này do tỷ lệ hút thuốc và nhiễm trùng cao ở bệnh nhân PAP. Tuy nhiên, không có mối liên hệ nhân quả nào được tìm thấy giữa khói thuốc lá và PAP tự miễn dịch. Ngoài ra, không có mối liên hệ nhân quả nào được tìm thấy giữa nhiễm trùng và PAP tự miễn dịch.
Giảm số lượng quần thể đại thực bào trong PAP thứ cấp được gây ra bởi bất kỳ bệnh nào làm giảm số lượng đại thực bào phế nang. Trong một phân tích hồi cứu, 34.1% PAP thứ phát có liên quan đến hội chứng loạn sản tủy và 15.2% có liên quan đến bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính, bệnh bạch cầu dòng tủy cấp.
Hóa chất
PAP thứ cấp cũng có liên quan đến việc hít phải một số chất ô nhiễm từ môi trường. Những chất từ môi trường này bao gồm silica, talc, xi măng, cao lanh, nhôm, titan, indium và cellulose. Một số nghiên cứu trên động vật, PAP đã được chẩn đoán sau khi những con vật này hít phải nhôm, sợi thủy tinh, indi, niken, thạch anh, silica và titan. Phân tích ở Pháp về bệnh nhân PAP cho thấy có khoảng 39% trường hợp mắc bệnh đã tiếp xúc với môi trường xi măng, bụi ngũ cốc, đồng, epoxy, sơn, polyvinyl clorua, silica, hàn, bụi gỗ, zirconi hoặc khói.
Di truyền
Rối loạn chức năng di truyền ở một trong nhiều protein chịu trách nhiệm điều hòa chất hoạt động bề mặt gây ra PAP bẩm sinh. Điều này bao gồm các đột biến trong tiểu đơn vị alpha hoặc tiểu đơn vị beta của thụ thể GM-CSF, protein hoạt động bề mặt B, protein hoạt động bề mặt C, đơn vị liên kết ATP3 hoặc bệnh không dung nạp protein lysine.
Một số nguyên nhân gây ra tình trạng tích protein phế nang bao gồm:
Cảm giác nặng tức ngực có thể liên quan đến tình trạng tích protein phế nang. Tuy nhiên, triệu chứng này cũng có thể do nhiều nguyên nhân khác như viêm phổi, bệnh tim, hoặc do vấn đề tâm lý như lo âu, căng thẳng kéo dài.
Xét nghiệm chính xác nhất để phát hiện bệnh tích protein phế nang là nội soi phế quản kết hợp với nhuộm và soi mẫu dịch rửa phế quản phế nang. Ngoài ra, xét nghiệm máu để tìm kháng thể chống lại GM-CSF có thể được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán trong trường hợp bệnh do rối loạn tự miễn dịch. Chụp CT ngực cũng giúp phát hiện những bất thường liên quan.
Phẫu thuật không phải là phương pháp điều trị phổ biến cho bệnh tích protein phế nang. Thay vào đó, các phương pháp điều trị chính thường bao gồm:
Phẫu thuật thường chỉ được xem xét trong các trường hợp rất hiếm, khi biện pháp khác không hiệu quả và có biến chứng nặng cần can thiệp.
Để quản lý bệnh tích protein phế nang và tránh làm tình trạng bệnh nặng hơn, bệnh nhân nên tránh các thói quen sinh hoạt sau:
Hỏi đáp (0 bình luận)