Tốt nghiệp loại xuất sắc bác sĩ Đa khoa tốt nghiệp tại Liên Bang Nga, với kinh nghiệm chuyên sâu về Sản Phụ khoa và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩ Chuyên khoa 1Nguyễn Thị Khánh Vy
Tốt nghiệp loại xuất sắc bác sĩ Đa khoa tốt nghiệp tại Liên Bang Nga, với kinh nghiệm chuyên sâu về Sản Phụ khoa và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Hiện nay, ở Việt Nam tỉ lệ các cặp vợ chồng mắc phải bệnh vô sinh hiếm muộn đang dần tăng lên, điều này đã khiến không ít cặp vợ chồng lo lắng phiền muộn. Vậy hiếm muộn là gì? Nguyên nhân và cách chữa trị?
Hiếm muộn là khi một cặp vợ chồng không thể có thai (thụ thai) mặc dù có quan hệ tình dục thường xuyên mà không dùng các biện pháp tránh thai.
Khoảng 84% các cặp vợ chồng sẽ thụ thai tự nhiên trong vòng một năm nếu họ quan hệ tình dục thường xuyên (2 hoặc 3 ngày một lần) và không sử dụng các biện pháp tránh thai.
Mang thai là kết quả của quá trình gồm nhiều bước như sau:
Hiếm muộn có thể là nguyên phát hoặc thứ phát:
Hiếm muộn được xác định khi hai vợ chồng giao hợp đều đặn, không sử dụng các biện pháp tránh thai, sau 6 tháng (đối với vợ từ trên 35 tuổi) hoặc 12 tháng (đối với vợ dưới 35 tuổi) mà chưa thụ thai tự nhiên.
Nếu bạn vẫn chưa thụ thai sau một năm cố gắng thì bạn nên đến các phòng khám uy tín để được khám và tư vấn.
Bạn nên đi khám bác sĩ sớm nếu:
Nguyên nhân gây hiếm muộn ở nam giới?
Hiếm muộn ở nam giới có thể do các yếu tố khác nhau gây ra:
Sự gián đoạn chức năng tinh hoàn hoặc phóng tinh
Giãn tĩnh mạch thừng tinh, một tình trạng trong đó các tĩnh mạch bên trong tinh hoàn của đàn ông bị phì đại. Mặc dù thường không có triệu chứng, nhưng giãn tĩnh mạch thừng tinh có thể ảnh hưởng đến số lượng hoặc hình dạng của tinh trùng.
Chấn thương tinh hoàn có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất tinh trùng và dẫn đến số lượng tinh trùng thấp hơn.
Sử dụng rượu nặng, hút thuốc, sử dụng steroid đồng hóa và sử dụng ma túy bất hợp pháp.
Điều trị ung thư liên quan đến một số loại hóa trị, xạ trị hoặc phẫu thuật để loại bỏ một hoặc cả hai tinh hoàn.
Các tình trạng bệnh lý như tiểu đường, xơ nang, một số loại rối loạn tự miễn dịch và một số loại nhiễm trùng có thể gây ra suy tinh hoàn.
Rối loạn nội tiết tố
Hoạt động không đúng chức năng của tuyến dưới đồi hoặc tuyến yên. Các tuyến dưới đồi và tuyến yên trong não sản xuất các hormone duy trì chức năng bình thường của tinh hoàn. Sản xuất quá nhiều prolactin, một loại hormone do tuyến yên tạo ra (thường do sự hiện diện của khối u lành tính tuyến yên), các tình trạng khác làm tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng của vùng dưới đồi hoặc tuyến yên có thể dẫn đến ít hoặc không có tinh trùng.
Khối u tuyến yên lành tính và ác tính (ung thư), tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh, tiếp xúc với quá nhiều estrogen, tiếp xúc với quá nhiều testosterone, hội chứng Cushing và sử dụng mãn tính các loại thuốc glucocorticoid.
Rối loạn di truyền
Các tình trạng di truyền như hội chứng Klinefelter, thiểu sản nhiễm sắc thể Y, loạn dưỡng cơ và các rối loạn di truyền khác, ít phổ biến hơn có thể khiến không sản xuất được tinh trùng hoặc số lượng tinh trùng thấp.
Nguyên nhân gây hiếm muộn ở nữ giới?
Phụ nữ cần buồng trứng hoạt động, ống dẫn trứng và một tử cung có thể mang thai. Các tình trạng ảnh hưởng đến bất kỳ một trong những cơ quan này đều có thể góp phần gây hiếm muộn ở nữ.
Sự gián đoạn chức năng buồng trứng (có hoặc không có rụng trứng và ảnh hưởng của “tuổi” buồng trứng)
Sự gián đoạn chức năng buồng trứng có thể do một số bệnh lý gây ra và cần được bác sĩ đánh giá:
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS): PCOS là một tình trạng khiến phụ nữ không rụng trứng hoặc rụng trứng không đều. Một số phụ nữ bị PCOS có mức độ testosterone tăng cao, có thể gây ra mụn trứng cá và tóc mọc thừa. PCOS là nguyên nhân phổ biến nhất gây vô sinh nữ.
Giảm thiểu dự trữ buồng trứng (DOR): Số lượng trứng mà phụ nữ có từ khi được sinh ra sẽ giảm dần theo thời gian. DOR là tình trạng có ít trứng còn lại trong buồng trứng hơn dự kiến ở một độ tuổi nhất định. Nó có thể xảy ra do bẩm sinh (tình trạng có sẵn khi sinh), các nguyên nhân nội khoa, phẫu thuật hoặc không rõ nguyên nhân. Phụ nữ có DOR có thể thụ thai tự nhiên, nhưng sẽ sản xuất ít trứng hơn để đáp ứng với các phương pháp điều trị hỗ trợ sinh sản.
Vô kinh chức năng vùng dưới đồi (FHA): FHA là một tình trạng do tập thể dục quá mức, giảm cân, căng thẳng hoặc thường là sự kết hợp của các yếu tố này. Nó đôi khi kết hợp với rối loạn ăn uống như chán ăn.
Hoạt động không đúng chức năng của tuyến dưới đồi và tuyến yên. Các tuyến dưới đồi và tuyến yên trong não sản xuất các hormone duy trì chức năng buồng trứng bình thường. Việc sản xuất quá nhiều hormone prolactin bởi tuyến yên (thường là kết quả của một khối u tuyến yên lành tính), hoặc chức năng không đúng của vùng dưới đồi hoặc tuyến yên, có thể khiến phụ nữ không rụng trứng.
Suy buồng trứng sớm (POI): POI đôi khi được gọi là mãn kinh sớm, xảy ra khi buồng trứng của phụ nữ bị hỏng trước 40 tuổi. Mặc dù một số tiếp xúc nhất định, chẳng hạn như hóa trị hoặc xạ trị vùng chậu và một số điều kiện y tế nhất định có thể gây ra POI, nhưng nguyên nhân thường không giải thích được. Khoảng 5% đến 10% phụ nữ bị POI thụ thai tự nhiên và có thai bình thường.
Thời kỳ mãn kinh: Mãn kinh là một sự suy giảm tự nhiên của chức năng buồng trứng, thường xảy ra vào khoảng tuổi 50. Theo định nghĩa, một phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh không có kinh trong ít nhất một năm.
Tắc ống dẫn trứng (cho dù ống dẫn trứng đang mở, bị tắc hay bị sưng)
Các yếu tố nguy cơ gây tắc ống dẫn trứng có thể bao gồm tiền sử nhiễm trùng vùng chậu, ruột thừa bị vỡ, bệnh lậu, chlamydia, lạc nội mạc tử cung hoặc phẫu thuật bụng trước đó.
Đặc điểm vật lý của tử cung
Tùy thuộc vào các triệu chứng của phụ nữ, tử cung có thể được đánh giá bằng siêu âm qua ngã âm đạo để tìm u xơ tử cung hoặc các vấn đề khác, bao gồm dính trong tử cung, polyp nội mạc tử cung, u tuyến và các dị tật bẩm sinh của tử cung. Siêu âm hoặc nội soi tử cung cũng có thể được thực hiện để đánh giá thêm về môi trường tử cung.
https://www.cdc.gov/reproductivehealth/infertility/index.htm
https://www.nhs.uk/conditions/infertility/diagnosis/
https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/infertility
https://www.nhs.uk/conditions/infertility/
https://cdcangiang.vn/index.php/2020/11/09/cach-phong-tranh-vo-sinh-o-nu-gioi/
Hiếm muộn và vô sinh không hoàn toàn giống nhau, nhưng hai khái niệm này có liên quan chặt chẽ. Hiếm muộn là khi cặp đôi gặp khó khăn trong việc thụ thai sau một năm quan hệ không dùng biện pháp tránh thai, nhưng vẫn có cơ hội mang thai với sự hỗ trợ y tế. Vô sinh là khi cặp đôi hoàn toàn không thể thụ thai dù đã áp dụng các phương pháp hỗ trợ sinh sản khác nhau.
Hiếm muộn có thể điều trị được và kết quả thường phụ thuộc vào nguyên nhân cụ thể. Các phương pháp điều trị có thể bao gồm thay đổi lối sống, điều trị nội tiết, phẫu thuật hoặc các phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Hiếm muộn có thể có yếu tố di truyền trong một số trường hợp, nhất là khi nguyên nhân liên quan đến bất thường về gen, cấu trúc cơ quan sinh sản hoặc rối loạn nội tiết. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hiếm muộn đều có tính di truyền. Những yếu tố khác như lối sống, môi trường và tình trạng sức khỏe cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Hiếm muộn có thể gặp ở cả nam và nữ với tỷ lệ gần tương đương.
Khi mang thai sau điều trị hiếm muộn, mẹ và bé có thể gặp một số rủi ro cao hơn, nhưng không phải tất cả các trường hợp đều có vấn đề. Với mẹ, các rủi ro có thể bao gồm nguy cơ tiền sản giật, tiểu đường thai kỳ hoặc sinh non. Bé có thể có nguy cơ nhẹ về nhẹ cân khi sinh hoặc sinh non. Tuy nhiên, nếu mẹ bầu được theo dõi và chăm sóc y tế kỹ lưỡng, nhiều rủi ro này có thể được kiểm soát tốt.
Hỏi đáp (0 bình luận)