Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội, có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe da liễu, hiện tại đang công tác tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩNguyễn Văn Tường
Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội, có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe da liễu, hiện tại đang công tác tại Trung tâm Tiêm chủng Long Châu.
Rối loạn lo âu là một tình trạng sức khỏe tâm thần. Sự lo lắng quá mức khiến bệnh nhân khó có thể sinh hoạt và làm việc bình thường. Các triệu chứng bao gồm cảm giác lo lắng, hoảng sợ và sợ hãi kèm theo đổ mồ hôi và tim đập nhanh. Điều trị chủ yếu bằng thuốc và liệu pháp hành vi nhận thức, thường cho kết quả tốt nhất khi kết hợp với nhau.
Lo âu là một phần bình thường của cuộc sống. Tuy nhiên, những người bị rối loạn lo âu thường xuyên lo lắng và sợ hãi dữ dội, quá mức và dai dẳng hàng ngày. Thông thường, rối loạn lo âu gây ra các đợt lặp đi lặp lại cảm giác lo lắng dữ dội và sợ hãi hoặc kinh hoàng đột ngột lên đến đỉnh điểm trong vòng vài phút (cơn hoảng loạn).
Những cảm giác lo lắng và hoảng sợ này cản trở các hoạt động hàng ngày, khó kiểm soát, không tương xứng với mức độ nguy hiểm thực tế và có thể kéo dài. Các triệu chứng có thể bắt đầu trong thời thơ ấu hoặc những năm thiếu niên và tiếp tục đến tuổi trưởng thành.
Rối loạn lo âu bao gồm rối loạn lo âu tổng quát, rối loạn lo âu xã hội (ám ảnh xã hội), ám ảnh sợ hãi cụ thể và rối loạn lo âu phân ly. Bệnh nhân có thể mắc nhiều chứng rối loạn lo âu cùng lúc. Đôi khi lo lắng là hậu quả của một tình trạng bệnh lý cần điều trị.
Dù đang mắc phải dạng lo lắng nào cũng cần điều trị để nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các dấu hiệu và triệu chứng lo âu phổ biến bao gồm:
Cảm thấy lo lắng, bồn chồn hoặc căng thẳng;
Có cảm giác nguy hiểm sắp xảy ra, hoảng sợ;
Tăng nhịp tim;
Thở nhanh (tăng thông khí);
Đổ mồ hôi;
Run;
Cảm thấy yếu hoặc mệt mỏi;
Khó tập trung hoặc suy nghĩ về bất cứ điều gì khác ngoài nỗi lo hiện tại;
Gặp phải các vấn đề về đường tiêu hóa (GI);
Gặp khó khăn trong việc kiểm soát lo lắng;
Có mong muốn tránh những thứ gây ra lo lắng.
Một số loại rối loạn lo âu có thể gặp:
Agoraphobia (ám ảnh sợ khoảng trống): Rối loạn lo âu gây sợ hãi và khiến bệnh nhân trốn tránh khỏi những nơi có không gian mở rộng hoặc các đám đông, phương tiện công cộng.
Rối loạn lo âu do một tình trạng bệnh lý bao gồm các triệu chứng lo lắng hoặc hoảng sợ dữ dội do một vấn đề sức khỏe thể chất trực tiếp gây ra.
Rối loạn lo âu tổng quát bao gồm lo âu kéo dài và quá mức, lo lắng về các hoạt động hoặc sự kiện - ngay cả những vấn đề bình thường. Sự lo lắng không phù hợp với hoàn cảnh thực tế, khó kiểm soát và ảnh hưởng đến cảm giác thể chất. Nó thường xảy ra cùng với các rối loạn lo âu hoặc trầm cảm khác.
Rối loạn hoảng sợ bao gồm các giai đoạn lặp đi lặp lại của cảm giác lo lắng dữ dội và sợ hãi hoặc kinh hoàng lên đến đỉnh điểm trong vòng vài phút (cơn hoảng loạn). Bệnh nhân có cảm giác sắp chết, khó thở, đau ngực hoặc tim đập nhanh. Những cơn hoảng sợ này có thể dẫn đến việc lo lắng về việc sẽ xảy ra lần nữa hoặc tránh những tình huống đã xảy ra.
Chứng im lặng có chọn lọc là tình trạng trẻ em thường xuyên không nói được trong một số tình huống nhất định, như ở trường học, ngay cả khi chúng có thể nói trong hoàn cảnh khác, như ở nhà với người thân trong gia đình. Điều này có thể ảnh hưởng đến hoạt động ở trường học, công việc và xã hội.
Rối loạn lo lắng vì xa cách là một chứng rối loạn thời thơ ấu, đặc trưng bởi sự lo lắng quá mức đối với sự phát triển của trẻ và liên quan đến việc tách biệt khỏi cha mẹ hoặc những người có vai trò làm cha mẹ.
Rối loạn lo âu xã hội (ám ảnh sợ xã hội) liên quan đến mức độ lo lắng, sợ hãi và né tránh các tình huống xã hội do cảm giác xấu hổ, tự ý thức và lo lắng về việc bị người khác đánh giá hoặc nhìn nhận tiêu cực.
Ám sợ chuyên biệt đặc trưng bởi sự lo lắng nghiêm trọng khi tiếp xúc với một đối tượng hoặc tình huống cụ thể và muốn tránh nó. Chứng ám ảnh gây ra các cuộc tấn công do hoảng sợ ở một số người.
Rối loạn lo âu do chất gây nghiện gây các triệu chứng lo lắng hoặc hoảng sợ dữ dội là kết quả trực tiếp của việc lạm dụng ma túy, dùng thuốc, tiếp xúc với một chất độc hại hoặc cai nghiện ma túy.
Rối loạn lo âu khác và rối loạn lo âu không xác định là các thuật ngữ chỉ chứng lo âu hoặc ám ảnh không đáp ứng các tiêu chí chính xác cho bất kỳ rối loạn lo âu nào khác nhưng gây đau khổ và phiền muộn đáng kể.
Rối loạn lo âu không chỉ làm bệnh nhân lo lắng mà cũng có thể dẫn đến hoặc làm trầm trọng hơn các tình trạng tinh thần và thể chất khác, chẳng hạn như:
Trầm cảm (thường xảy ra với rối loạn lo âu) hoặc các rối loạn sức khỏe tâm thần khác;
Lạm dụng thuốc;
Khó ngủ (mất ngủ);
Các vấn đề về tiêu hóa;
Nhức đầu và đau mãn tính;
Cách ly xã hội;
Sự cố hoạt động ở trường học hoặc cơ quan;
Chất lượng cuộc sống kém;
Tự tử.
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Nguyên nhân của rối loạn lo âu vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn. Những trải nghiệm trong cuộc sống như các biến cố đau buồn có thể kích hoạt chứng rối loạn lo âu ở những người vốn dễ bị lo âu. Các đặc điểm di truyền cũng có thể là một yếu tố.
Đối với một số người, lo lắng có thể liên quan đến một vấn đề sức khỏe tiềm ẩn. Trong một số trường hợp, các dấu hiệu và triệu chứng lo lắng là những dấu hiệu đầu tiên của một bệnh lý. Nếu bác sĩ nghi ngờ sự lo lắng của bệnh nhân do bệnh lý, có thể yêu cầu xét nghiệm để tìm dấu hiệu của vấn đề.
Các bệnh lý có thể gây lo âu bao gồm:
Bệnh tim.
Các vấn đề về tuyến giáp, chẳng hạn như cường giáp.
Rối loạn hô hấp, như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) và hen suyễn.
Lạm dụng hoặc cai nghiện ma túy.
Cai rượu, thuốc chống lo âu (benzodiazepines) hoặc các loại thuốc khác.
Đau mãn tính hoặc hội chứng ruột kích thích.
Các khối u hiếm gặp tạo ra hormone catecholamine (adrenaline và non-adrenaline).
Đôi khi lo âu là tác dụng phụ của một số loại thuốc.
Tình trạng rối loạn lo âu có thể do bệnh lý tiềm ẩn nếu bệnh nhân:
Không có bất kỳ người thân cùng huyết thống nào (như cha mẹ hoặc anh chị em ruột) mắc chứng rối loạn lo âu.
Không bị rối loạn lo âu khi còn nhỏ.
Không tránh những điều hoặc tình huống nhất định vì lo lắng.
Đột ngột xuất hiện cảm giác lo âu dường như không liên quan đến các biến cố trong cuộc sống và bệnh nhân không có tiền sử lo âu trước đây.
1. https://www.msdmanuals.com/professional/psychiatric-disorders/anxiety-and-stressor-related-disorders/overview-of-anxiety-disorders
2. https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/anxiety/diagnosis-treatment/drc-20350967
3. https://syt.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/6CWBO9WiZqsQ/content/roi-loan-lo-u-co-tu-het-khong-chua-khoi-hoan-toan-uoc-khong-
Lo âu được đặc trưng bởi một số dấu hiệu như:
Bác sĩ có thể đánh giá mức độ lo âu bằng các phương pháp sau:
Lo âu có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tim mạch. Cảm giác lo âu kéo dài hoặc rối loạn lo âu có thể dẫn đến các tác động sau đối với tim mạch như tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim, làm tăng nguy cơ đau tim, viêm nhiễm mạch máu,...
Di truyền có thể là một những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc phải lo âu. Nghiên cứu cho thấy rằng nếu trong gia đình có người mắc rối loạn lo âu, con cháu có khả năng cao hơn mắc các vấn đề tương tự. Những yếu tố nguy cơ khác như chất dẫn truyền thần kinh trong não, tính cách và những sự kiện trong cuộc sống.
Lo âu và rối loạn lo âu đều liên quan đến cảm giác lo lắng, nhưng có sự khác biệt chính về mức độ, tần suất, và ảnh hưởng đến cuộc sống:
Nói cách khác, lo âu thông thường là phản ứng bình thường và tạm thời, trong khi rối loạn lo âu là tình trạng bệnh lý cần được chẩn đoán và điều trị.
Hỏi đáp (0 bình luận)