Tăng huyết áp trong thai kỳ là gì?
Tăng huyết áp trong thai kỳ được định nghĩa là huyết áp (HA) ≥140/90 mmHg trong hai lần đo (cách nhau ít nhất 4 giờ) sau tuần thứ 20 mang thai hoặc muộn hơn của thai kỳ, ở một phụ nữ có huyết áp bình thường trước đó, không có protein niệu (>300 mg trong 24 giờ) hoặc các đặc điểm lâm sàng khác (giảm tiểu cầu, suy giảm chức năng thận, suy giảm chức năng gan, phù phổi hoặc đau đầu mới khởi phát) gợi ý đến tiền sản giật.
Tăng huyết áp thai kỳ nếu không phát hiện sớm có thể phát triển thành tiền sản giật. Tình trạng này xảy ra thường xuyên nhất ở phụ nữ trẻ mang thai lần đầu. Nó phổ biến hơn ở những người mang thai đôi, ở phụ nữ trên 35 tuổi, ở phụ nữ bị tăng huyết áp mãn tính hoặc bị tăng huyết áp ở lần mang thai trước, ở phụ nữ Mỹ gốc Phi và ở phụ nữ mắc bệnh tiểu đường.
Tiền sản giật được chẩn đoán khi một phụ nữ bị tăng huyết áp thai kỳ có lượng protein trong nước tiểu tăng lên.
Tiền sản giật gây biến chứng nặng là sản giật. Phụ nữ bị sản giật là tình trạng bị co giật toàn thân. Sản giật xảy ra ở khoảng 1/1.600 ca mang thai và phát triển vào gần cuối thai kỳ, trong hầu hết các trường hợp.
Hội chứng HELLP là một biến chứng của tiền sản giật nặng hoặc sản giật. Hội chứng HELLP là một nhóm các thay đổi về thể chất bao gồm thiếu máu tán huyết, tăng men gan và giảm lượng tiểu cầu ở thai phụ.
Tăng huyết áp trong thai kỳ thường được chia thành hai loại chính: Tăng huyết áp thai kỳ nhẹ và tăng huyết áp thai kỳ nặng. Tăng huyết áp thai kỳ nhẹ có thể được kiểm soát và quản lý bằng cách thay đổi lối sống và theo dõi chặt chẽ. Tuy nhiên, tăng huyết áp thai kỳ nặng có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như tổn thương nội tạng, suy thận, đột quỵ và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của thai nhi.
Phụ nữ cần theo dõi thường xuyên huyết áp và phân tích nước tiểu trong thai kỳ để loại trừ tiền sản giật.
Hỏi đáp (0 bình luận)