Với hơn 8 năm kinh nghiệm, trong đó có 5 năm làm việc trong lĩnh vực Nội khoa và 3 năm chuyên về tiêm chủng, bác sĩ đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Bác sĩHoàng Thị Lệ
Với hơn 8 năm kinh nghiệm, trong đó có 5 năm làm việc trong lĩnh vực Nội khoa và 3 năm chuyên về tiêm chủng, bác sĩ đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Sỏi niệu quản là các hạt rắn trong hệ tiết niệu. Nó có thể gây đau, buồn nôn, nôn, tiểu ra máu, cảm thấy ớn lạnh và sốt do nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa trên xét nghiệm nước tiểu và chụp X-Quang hoặc chụp cắt lớp điện toán xoắn ốc không dùng thuốc cản quang. Điều trị bằng thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh để điều trị nhiễm trùng, tán sỏi ngoài cơ thể hoặc tán sỏi nội soi.
Sỏi niệu quản là sỏi từ thận di chuyển xuống niệu quản (niệu quản là đường ống dẫn nước tiểu xuống bàng quang, và càng về cuối thì niệu quản càng hẹp). Sỏi niệu quản sẽ làm nước tiểu từ thận xuống bàng quang bị nghẽn lại, dẫn đến nước tiểu ứ đọng và gây ra nhiều biến chứng.
Sỏi niệu quản có thể gặp ở bất cứ đoạn nào trong niệu quản nhưng hay gặp nhất là ở các vị trí khá hẹp như:
Các viên sỏi lớn nằm trong nhu mô thận hay hệ thống ống góp thường không có triệu chứng (ngoại trừ sỏi gây tắc nghẽn và/ hoặc nhiễm trùng). Khi sỏi đã di chuyển xuống niệu quản và làm tắc nghẽn cấp tính sẽ gây đau dữ dội, có thể kèm theo buồn nôn, nôn và tiểu ra máu.
Cơn đau (cơn đau quặn thận) thường dữ dội và không liên tục, xảy ra theo chu kỳ, kéo dài khoảng 20 – 60 phút, kèm theo buồn nôn và nôn. Đau ở hạ sườn hoặc hố thận lan ra vùng bụng gần thận gợi ý tắc nghẽn niệu quản trên hoặc bể thận. Cơn đau lan dọc theo đường đi của niệu quản vào vùng sinh dục gợi ý tắc nghẽn niệu quản dưới. Đau vùng trên xương mu kèm tiểu gấp hoặc tiểu nhiều lần gợi ý sỏi niệu quản đoạn xa.
Khi thăm khám, bệnh nhân cảm thấy rất khó chịu, tái mặt và vã mồ hôi. Bệnh nhân bị đau quặn thận không thể nằm yên, bụng đau quặn và thay đổi tư thế liên tục.
Ở một số bệnh nhân, triệu chứng đầu tiên là tiểu ra máu hoặc tiểu ra sỏi. Một số có thể có biểu hiện của nhiễm trùng đường tiểu như sốt, khó tiểu hoặc nước tiểu đục và có mùi hôi.
Sỏi niệu quản gây ra những cơn đau quặn thận dữ dội vì cản trở dòng nước tiểu khiến thận và bể thận căng giãn.
Ứ nước ở thận làm giãn đài bể thận;
Nhiễm khuẩn đường tiết niệu;
Nếu có bất kỳ triệu chứng nào nêu trên xảy ra, bạn nên liên hệ ngay với bác sĩ để được kiểm tra và tư vấn. Chẩn đoán và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ tăng nặng của bệnh và giúp bạn mau chóng hồi phục sức khỏe.
Khoảng 85% người bị sỏi niệu quản ở Mỹ là sỏi calci, chủ yếu là calci oxalate, khoảng 10% sỏi acid uric, 2% sỏi cystine, còn lại là sỏi magnesium ammonium phosphate (struvite).
Các yếu tố nguy cơ chung cho các loại sỏi bao gồm các rối loạn làm tăng nồng độ muối trong nước tiểu, giảm bài tiết citrate trong nước tiểu và tăng bài tiết muối calci hoặc acid uric.
Các yếu tố nguy cơ gây ra sỏi calci thường thay đổi theo quần thể. Yếu tố nguy cơ chính ở Mỹ là tăng calci niệu, có tính di truyền ở 50% nam giới và 75% nữ giới có sỏi calci, do đó những người có người thân trong gia đình bị sỏi có nguy cơ bị sỏi tái diễn cao. Bệnh nhân thường có calci huyết thanh ở mức bình thường nhưng calci trong nước tiểu tăng hơn 250 mg/ngày (hơn 6,2 mmol/ngày) đối với nam giới và hơn 200 mg/ngày (hơn 5,0 mmol/ngày) đối với nữ giới.
Khoảng 40 – 50% bệnh nhân mắc sỏi calci bị giảm citrate trong nước tiểu (nồng độ citrate nhỏ hơn 350 mg/ngày, 1820 mcmol/ngày), thúc đẩy quá trình hình thành sỏi calci vì calci thường kết hợp với citrate, ức chế sự kết tính của muối calci.
Khoảng 5 – 8% sỏi niệu quản do toan hóa ống thận. 1 – 2% bệnh nhân bị sỏi calci do cường cận giáp tiên phát. Một số nguyên nhân hiếm gặp của tăng calci niệu là do ngộ độc vitamin D, sarcoidosis, đa u tủy xương, cường cận giáp, ung thư và tăng oxalate niệu.
Việc tăng oxalate niệu (> 40 mg/ngày (> 440 mcmol/ngày)) có thể do tăng oxalate tiên phát; do ăn nhiều các loại thực phẩm chứa oxalate như rau bina, đại hoàng, ca cao, tiêu, chè, các loại hạt); tăng hấp thu oxalate do có bệnh về đường ruột (hội chứng loạn khuẩn ruột, bệnh túi mật hay viêm tụy mạn) hoặc nối tắt hỗng – hồi tràng (phẫu thuật giảm cân).
Sỏi acid uric đa số hình thành do tăng acid nước tiểu (pH < 5,5) hoặc đôi khi là do tăng acid uric nước tiểu > 1500 mg/ngày (> 9 mmol/ngày) hình thành kết tinh acid uric không phân hủy. Các tinh thể acid uric có thể tự phát triển thành sỏi acid uric nhưng đa phần là tạo ra một hỗn hợp sỏi calci acid uric.
Sỏi cystine chỉ xảy ra khi có cystine trong nước tiểu.
Sỏi magnesium ammonium phosphate (sỏi do nhiễm trùng) do nhiễm trùng đường tiểu gây ra, thường là do vi khuẩn Proteus sp., Klebsiella sp. phân hủy ure. Sỏi magnesium ammonium phosphate thường gặp ở nữ giới nhiều hơn gấp 3 lần so với nam giỏi.
Một vài nguyên nhân hiếm gặp gây ra sỏi niệu quản là do dùng thuốc (melamine, triamterene, indinavir và xanthine).
Để biết có bị sỏi niệu quản không, bạn cần chú ý các triệu chứng như đau quặn thắt lưng, tiểu buốt, tiểu ra máu hoặc buồn nôn. Để chẩn đoán chính xác, bác sĩ sẽ tiến hành siêu âm hoặc chụp CT để xác định kích thước và vị trí sỏi trong niệu quản.
Sỏi niệu quản nhỏ có thể điều trị tại nhà bằng cách uống nhiều nước để sỏi tự đào thải qua đường tiểu. Tuy nhiên, với sỏi lớn hoặc trường hợp gây đau dữ dội, tắc nghẽn, cần thăm khám và can thiệp y tế.
Sỏi niệu quản có thể cần phẫu thuật nếu sỏi lớn, gây đau dữ dội, tắc nghẽn hoặc nhiễm trùng mà không thể tự đào thải. Tuy nhiên, sỏi nhỏ có thể tự thoát ra qua đường tiểu với điều trị uống nước và thuốc, hoặc cần thủ thuật ít xâm lấn như tán sỏi ngoài cơ thể.
Sỏi niệu quản không trực tiếp gây ra sỏi bàng quang, nhưng khi sỏi từ niệu quản di chuyển xuống bàng quang và không được đào thải, chúng có thể tích tụ và phát triển thành sỏi bàng quang. Tình trạng ứ đọng nước tiểu hoặc nhiễm trùng cũng làm tăng nguy cơ hình thành sỏi mới.
Sỏi niệu quản có thể tái phát sau điều trị nếu không có biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Để giảm nguy cơ tái phát, bạn nên uống đủ nước, kiểm soát chế độ ăn, giảm muối và theo dõi sức khỏe định kỳ theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Hỏi đáp (0 bình luận)