Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Ứng dụng Nhà Thuốc Long Châu
Siêu ưu đãi, siêu trải nghiệm
Dược sĩ Đại học Nguyễn Tuấn Trịnh
Từng làm ở Viện ISDS, nhiều năm cộng tác với CDC Thái Nguyên triển khai dự án phòng chống HIV/AIDS, 2 năm cộng tác với WHO.
Tình trạng đường huyết cao và tình trạng bệnh tiểu đường dễ nhầm lẫn với nhau. Thực tế, khi chỉ số đường huyết cao thì chưa hẳn đã mắc bệnh tiểu đường. Đôi khi, lượng đường huyết chỉ tăng cao ở một thời điểm nhất định rồi trở lại bình thường thì đây là hiện tượng sinh lý của cơ thể. Nếu lượng đường huyết thường xuyên tăng cao và không thể điều chỉnh về mức bình thường là biểu hiện của bệnh lý.
Cơ thể chúng ta có đường trong máu, được gọi là glucose. Thông thường, glucose được vận chuyển từ ruột hoặc gan đến các tế bào qua đường máu và được hấp thụ qua các kích thích tố insulin. Tuy nhiên, nếu quá trình chuyển hóa glucose bị trục trặc dẫn đến tích tụ đường trong máu dẫn đến bệnh lý đái tháo đường.
Bệnh tiểu đường (đái tháo đường) là bệnh rối loạn chuyển hóa, có đặc điểm tăng glucose huyết mạn tính do khiếm khuyết về tiết insulin, về tác động của insulin, hoặc cả hai. Tăng glucose mạn tính trong thời gian dài gây nên những rối loạn chuyển hóa carbohydrate, protide, lipide, gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau, đặc biệt ở tim và mạch máu, thận, mắt, thần kinh.
Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường dựa vào 1 trong 4 tiêu chí sau đây:
Glucose huyết tương lúc đói ≥ 126 mg/dL (hay 7 mmol/L).
Glucose huyết tương ở thời điểm sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp với 75g glucose bằng đường uống ≥ 200 mg/dL (hay 11,1 mmol/L).
HbA1c ≥ 6,5% (48 mmol/mol). Xét nghiệm HbA1c phải được thực hiện bằng phương pháp đã chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế.
Bệnh nhân có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết hoặc của cơn tăng glucose huyết cấp kèm mức glucose huyết tương bất kỳ ≥ 200 mg/dL (hay 11,1 mmol/L).
Tăng đường máu sớm thường không có triệu chứng; do đó chẩn đoán có thể bị chậm nhiều năm.
Tăng đường máu đáng kể hơn gây ra glucose nước tiểu và lợi tiểu thẩm thấu, dẫn tới tiểu thường xuyên, tiểu nhiều, và khát nhiều, có thể tiến triển tới hạ huyết áp tư thế và mất nước. Mất nước nặng gây yếu, mệt, và thay đổi trạng thái tâm thần.
Triệu chứng có thể thay đổi khi nồng độ glucose huyết tương dao động. Ăn nhiều có thể liên quan đến triệu chứng của tăng đường máu nhưng không phải triệu điển hình để bệnh nhân quan tâm. Tăng đường máu cũng gây giảm cân, buồn nôn và nôn, và nhìn mờ, và xu hướng nhiễm khuẩn hoặc nấm.
Nhiều năm kiểm soát đường huyết cao dẫn tới nhiều biến chứng mạch máu, ảnh hưởng tới mạch máu nhỏ (vi mạch), mạch máu lớn hoặc cả hai.
Bệnh vi mạch cơ bản có 3 biểu hiện phổ biến và nặng nề của đái tháo đường:
Biến chứng mắt đái tháo đường: Bệnh võng mạc, Đục thủy tinh thể, Glaucoma.
Bệnh thận.
Bệnh thần kinh.
Bệnh vi mạch cũng có thể làm giảm liền vết thương da, thậm chí những tổn thương nhỏ của da lành có thể tiến triển thành loét sâu hơn và dễ bị nhiễm trùng, đặc biệt ở chi dưới. Kiểm soát glucose huyết tương tích cực có thể phòng tránh và làm chậm lại những biến chứng này nhưng không thể đảo ngược khi đã hình thành.
Bệnh mạch máu lớn gồm xơ vữa động mạch lớn, có thể dẫn tới:
Đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim.
Thiếu máu não thoáng qua và đột quỵ.
Bệnh động mạch ngoại vi.
Rối loạn miễn dịch là biến chứng khác và phát triển từ ảnh hưởng trực tiếp của đường máu cao lên tế bào miễn dịch. Bệnh nhân đái tháo đường đặc biệt dễ bị nhiễm khuẩn và nhiễm nấm.
Bạn nên liên hệ với bác sĩ nếu bạn có bất cứ dấu hiệu tăng đường huyết nào sau đây:
Bạn bị tiêu chảy hoặc nôn mửa liên tục, nhưng vẫn có thể ăn và uống.
Bạn bị sốt kéo dài hơn 24 tiếng đồng hồ.
Đường trong máu cao hơn 240 mg/dl (13 mmol/l) mặc dù bạn đã dùng thuốc tiểu đường.
Bạn gặp khó khăn kiểm soát đường huyết của bạn trong giới hạn cho phép.
Bạn cần đi cấp cứu ngay nếu:
Bạn đang bị bệnh và không thể ăn bất kỳ thức ăn hoặc chất lỏng nào.
Lượng đường trong máu của bạn cao liên tục trên 240 mg/dl (13 mmol/l) và có xeton trong nước tiểu.
Tình trạng lượng đường trong máu tăng cao có thể xuất phát từ những nguyên nhân như:
Thiếu hụt vitamin D.
Tiếp xúc với nguồn virus gây rối loạn miễn dịch.
Béo phì, chế độ ăn uống nhiều đường, giàu chất béo.
Ít vận động, thường xuyên ngồi một vị trí.
Chế độ ăn uống chưa khoa học, sử dụng quá nhiều tinh bột, cà phê, nước ngọt, rượu bia, thực phẩm nhiều dầu mỡ chế biến sẵn.
Tự ý ngưng sử dụng thuốc hạ đường huyết.
Căng thẳng, mất ngủ, mệt mỏi, áp lực kéo dài.
Viêm dạ dày, cảm lạnh, ảnh hưởng sau phẫu thuật hoặc chấn thương.
Chỉ số đường huyết được coi là bình thường nếu mức này dưới 100 mg/dL sau khi nhịn ăn ít nhất 8 giờ và dưới 140 mg/dL 2 giờ sau khi ăn. Trong suốt cả ngày, mức đường huyết thường thấp nhất ngay trước bữa ăn. Đối với hầu hết những người không mắc bệnh tiểu đường, lượng đường trong máu trước bữa ăn thường dao động từ 70 đến 80 mg/dL. Ở một số người khác, mức đường huyết trong khoảng từ 60 đến 90 mg/dL cũng được xem là bình thường.
Xem thêm thông tin: Chỉ số đường huyết của người bình thường là bao nhiêu?
Chỉ số đường huyết cao có thể chỉ ra nhiều vấn đề sức khỏe tiềm ẩn. Một người được xem là bị tăng đường huyết nếu mức đường trong máu vượt quá 126 mg/dL (7 mmol/L) khi nhịn ăn hoặc trên 180 mg/dL (10 mmol/L) trong khoảng 1 đến 2 giờ sau khi ăn.
Xem thêm thông tin: Chỉ số tiểu đường bao nhiêu là nguy hiểm?
Các hoạt động thể chất kéo dài từ 15 đến 20 phút có thể giúp hạ đường huyết ngay lập tức, vì vận động sẽ tăng cường sử dụng glucose ở cơ bắp và cải thiện hoạt động của insulin. Tuy nhiên, bạn không nên tập thể dục nếu đang gặp phải các triệu chứng như chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, nôn mửa hoặc sốt.
Đường huyết tăng cao gây ra bệnh tiểu đường. Các biến chứng cấp tính của bệnh tiểu đường bao gồm hôn mê do tăng đường huyết. Về biến chứng mãn tính, bệnh có thể ảnh hưởng đến các mạch máu lớn như mạch não, mạch vành và mạch máu ở chi dưới, cũng như các mạch máu nhỏ, ảnh hưởng đến mắt. Ngoài ra, bệnh cũng có thể tác động đến hệ thần kinh tự động, dẫn đến hạ huyết áp khi thay đổi tư thế, nhịp tim nhanh, rối loạn cơ thắt bàng quang gây ra tiểu rắt hoặc bí tiểu, ảnh hưởng đến dạ dày và ruột. Các biến chứng khác bao gồm sâu răng và tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Để duy trì lượng đường huyết trong mức bình thường, bạn cần thực hiện một số biện pháp như sau:
Xem thêm thông tin: Cách kiểm soát đường huyết tại nhà
Hỏi đáp (0 bình luận)